CHƯƠNG 91
VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY
Đề tài này được coi như là một phần của vấn nạn tham nhũng, cho nên
đáng lý ra nó phải nằm trong Chương 90. Nhưng vì Chương 90 quá dài, chúng
tôi phải tách riêng phần này ra làm chủ đề cho Chương 91. Phần lớn những dữ
kiện được sử dụng trong đề tài này được căn cứ vào cuốn The Politics of
Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy, (New York:Harper
Colophon Books,1972) và cuốn Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy (bản
tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do,
2000).
Từ kép “ma túy” trong bài được sử dụng để nói chung cho thuốc phiện và tất cả
các sản phẩm chế biến từ thuốc phiện (opium) hay những chất (substance) mà
tiếng Anh gọi là “narcotic”, “morphin”, “heroin”, v.v… . Tác giả xin thỉnh ý quý vị nếu có một từ khác thích hợp hơn. Đa tạ
Nguyễn Mạnh Quang
Ma túy hay thuốc phiện có tác dụng làm cho người hút dễ bị nghiền. Một
khi đã trở thành nghiền rồi, người nghiện luốn luôn thèm khát, đòi hỏi phải
hút đều đều và càng hút nhiều hơn càng cảm thấy lâng lâng cảm khoái. Tình
trạng này làm cho tâm trí của họ lúc nào cũng nghĩ đến phương cách phải có
thuốc đều đều. Cũng vì thế, đối với người nghiền ma túy, có bao nhiều tiền
bạc cũng dành để mua thuốc phiện không cần biết đến tình trạng tài chánh hay
hoàn cảnh túng thiếu của chính bản thân hay gia đình họ. Hậu quả là:
1.- Gia đình họ bị khánh kiệt.
2.- Vợ con của họ bị điêu đứng khốn khổ.
3.- Đói ăn vụng, túng làm liều. Khi cơn nghiền lên, không có tiền mua
thuốc, họ có thể làm bất cứ chuyện gì (ăn cắp, ăn trộm, lừa đảo, giết người
đoạt của, lường thày, phản bạn, bán nước, bán vợ, đợ con, v.v…) để có tiền
mua thuốc phiện.
4.- Nếu không có đủ thuốc hút để thỏa mãn sức mạnh đòi hỏi của cơn
nghiền, cơ thể của người nghiền sẽ bị suy nhược, mất hết nghị lực sinh tồn,
không còn nghĩ đến tương lai của bản thân, không còn nghĩ đến hạnh phúc của
gia đình, bất cần đến những người xung quanh, nói chi đến quốc gia và dân
tộc.
5.- Nếu quốc gia có quá nhiều người như vậy thì dân nước sẽ không còn ý
chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự tung tự tác. Hậu
quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh lệ
thuộc nước ngoài.
Cũng vì thế mà cuối thập niên 1830, Đế Quốc Anh mới tiến hành chính sách
sử dụng thuốc phiện làm băng họai tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Hoa
và đã gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842).
Đây là nguyên nhân TẠI SAO, từ ngàn xưa, những người hút hay nghiện
thuốc phiện bị coi như là phần tử không tốt cho xã hội, và mọi người đều
muốn lánh xa. Cũng vì thế mà bất kỳ thế lực nào lên nắm chính quyền mà có
lòng vì nước vì dân cũng đều phải ra lệnh triệt đế cấm lưu hành sản phẩm
này.
Điều đau buồn là trong thời Liên Minh Pháp – Vatican đánh chiếm và thống
trị nước ta 1858-1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954, ở
những vùng Liên Minh Pháp –Vatican tạm chiếm và ở miền Nam Việt Nam trong
những năm 1954-1975, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng,
thiết lập các cơ sở chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyên khích mở
các tiệm hút và tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc
quyền buốn bán sản phẩm này.
Không ai chối cãi được rằng dã tâm của Liên Minh Pháp –Vatican là đem
thuốc phiện vào Việt Nam để đầu độc và giảm bớt tiềm năng chiến đấu chống
lại chúng, nhiên hậu, chúng sẽ dễ dàng thôn tính và thống trị dân ta. Để
đạt được mục đích này, chúng phải tạo điều kiện thuận lợi cho càng nhiều
người càng tốt dễ dàng sử dụng sản phẩm này để cho
họ sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả cuộc đời và trở thành
gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, và không còn quan tâm đến sự tồn vong
của đất nước và dân tộc..
Tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, sách sử đều ghi
nhận rằng, chủ trương của Liên Minh Pháp – Vatican trong việc nhập cảng, chế
biên và phân phối thuốc phiện bán cho đại khối quần chúng là để vừa làm tiêu
tan ý chí đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, vừa lấy tiền chi
phí cho bộ máy cai trị tại Đông Dương.
Theo dõi vấn đề ma túy ở trên thế giới, người viết nhận thấy rằng, từ đầu
thế kỳ 19 đến ngày nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng có vấn nạn
buôn bán nha phiến. Thường thường, những kẻ chủ mưu nhập cảng, biến chế và
phân phối cho khách hàng tiêu thụ sản phẩm này đều là những tổ chức tội ác
hay những thế lực ngoại thù như trường hợp người Anh nhập cảng nha phiến
vào Trung Hoa và gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842) và Liên Minh
Pháp – Vatican nhập cảng nha phiến vào Đông Dương.
NGUỒN GỐC CỦA VIỆC
BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM
Trước thế kỷ 19, Việt Nam có một số người hút thuốc phiện, nhưng hầu như
không có vấn nạn buôn bán ma túy. Từ đầu thế kỷ 19, những tầu thuyền chuyên
chở thuốc phiện (hầu hết là của người Anh) trên đường đưa vào thị trường
Trung Hoa, thường ghé bến ở Việt Nam. Tại đây, bọn con buôn móc nối được
một số Hoa thương để bán sản phẩm này ở nước ta. Thấy vậy, vào năm 1820,
triều đình Huế bèn ban hành lệnh đặt việc buôn bán và hút thuốc phiện ra
ngoài vòng pháp luật.
Từ năm 1858, Liên Minh Pháp – Vatican dùng chiến lược nội công ngoại kích
tấn công Việt Nam, quân dân Việt Nam không chống cự nổi. Triều đình Huế bắt
buộc phải chấp nhận ký Hiệp Ước Nhâm Tuất 1862. Theo hiệp ước này, Nhà
Nguyễn phải chấp nhận 12 điều khoản:
1.- Phải để cho các giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha được tự đi lại truyền đạo
ở trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
2.- Nhường cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ (gồm các tỉnh Đồng Nai, Gia Định và Định Tường),
3.- Phải bồi thường cho liên minh giặc một khoản tiền chiến phí là 4
triệu quan (phải trả trong 10 năm), và nhận chịu nhiều điều khoản bất công
khác nữa.
…..
Kể từ đó, các Hoa Thương được tự do đem thuốc phiện vào bán ở những vùng
do Liên Minh Pháp – Vatican kiểm soát và phải đóng thuế 10% tính theo giá
bán. Cũng từ đó, trên lãnh thổ Đông Dương, quyền lực của Liên Minh Pháp –
Vatican mở rộng đến đâu thì ở đó việc buốn bán nha phiến được hợp pháp hóa.
Như đã nói ở trên, đây cũng là độc kế của Pháp và Vatican là vừa làm cho dân
ta bạc nhược mất hết nhuệ khí của truyền thống “quốc gia hưng vong, thất phu
hữu trách”, vừa có thể thâu nhập được một khoản tiền khá lớn, đài thọ được
một phần nào gánh nặng tài chính chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân ta.
Mấy năm sau, thấy rằng chính sách hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện
ở Đông Dương đem lại một số lợi nhuận khổng lồ, chính quyền Bảo hộ bèn quyết
định nắm độc quyền việc nhâp cảng, biến chế, phân phối và khuếch trương các
tiệm bán sản phẩm này cho khách hàng tiêu thụ, đặc biệt nhất là từ thời Toàn
Quyền Paul Doumer 12/1896-4/1889), trở về sau (cho đến năm 1945).
Vào năm 1918, việc làm ăn bất lương này rất thịnh đạt. Trên toàn thể lãnh
thổ Đông Dương có tới 1,512 tiệm hút công khai, và có tới 3,098 tiệm bán lẻ
cung ứng cho khách hàng tiệu thụ. [1]
Vào năm 1938, riêng những dịch vụ buôn bán thuốc phiện đem lại cho chính
quyền bảo hộ tới 15% của tổng số tiền thâu nhập.
Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) đã ảnh hưởng ít nhiều đến vần đề phân phối
thuốc phiện tại các địa phương và con số khách hàng tiêu thụ. Trong thời gian
này, con số tiệm bán lẻ giảm xuống còn có 2,500 tiệm, nhưng con số dân
nghiền vẫn còn tới cả 100 ngàn người, và vẫn mang lại cho chính quyền 15%
của tổng số tiền thâu nhập, giống như hồi năm 1938.
Kết luận: Tại Đông Dương, chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican là
thủ phạm của những hành động tội ác:
1.- Nhập cảng thuốc phiện ,
2.- Thiết lập các cơ sở chế biến,
3.- Tổ chức hệ thống phân phối,
4.- Khuyến khich việc mở mang bán sỉ, bán lẻ và các tiệm hút.
Mục đích của việc làm bất chính và dã man này là để vừa đầu độc dân ta
rơi vào tình trạng nghiện ngập nhằm làm suy yếu tinh thần chống ngoại xâm,
vừa để kinh doanh lấy tiền đài thọ cho bộ máy đàn áp nhân dân ta. Những sư
kiện này cũng được sử gia Alfred W McCoy ghi nhận trong cuốn The Politics of
Heroin in Southeast Asia với nguyên văn như sau:
“Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ ở Cao Mên (1863), Trung Kỳ (1883),
Bắc Kỳ (1884) và Lào (1893), người Pháp nắm độc quyền nhập cảng và phân phối
thuốc phiện để lấy tiền tài trợ gánh nặng chi phí cho bộ máy cai trị tại
thuộc địa. Trong khi việc buôn bán thuốc phiện ở Nam Kỳ đã thảnh công trong
nhiều năm, sự bành trướng các cơ sở kinh doanh của người Pháp (ở Đông Dương)
vào các thập niên 1880 và 1900 đã tạo nên tình trạng ngân quỹ bị thiếu hụt
trầm trọng cho toàn cõi Đông Dương. Hơn nữa, các chính quyền hổ lốn của năm
thuộc địa riêng rẽ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào) là một kiểu
mẫu thiếu năng lực, và những bầy đoàn công chức người Pháp đã làm hoang phí
những nguồn lợi tức nhỏ bé của các thuộc địa này. Dù là đã có những cải
cách hành chánh để hoàn chỉnh những thiệt hại trong những năm đầu thập niên
1890, tình trạng thiếu hụt ngân sách vẫn tiếp tục đe doạ tương lai của Đông
Dương thuộc Pháp.
Vào lúc này, Paul Doumer, một chuyên viên phân tích về ngân sách, được
đưa lên nắm giữ chức vụ Toàn Quyền Đông Dương. Ngay khi vừa rời nước Pháp
đến nhận nhiệm sở ở Đông Dương vào năm 1897, Toàn Quyền Doumer đã cho tiến
hành một loạt biện pháp cải cách về ngân khoản chi tiêu. Đó là những biện
pháp: Tạm ngưng tuyển mộ các công chức, cắt giảm những khoản chi tiêu không
cần thiết, và tập trung 5 ngân quỹ rời rạc của 5 xứ thuộc địa vào một sở
ngân khố trung ương. Nhưng quan trọng hơn hết là vào năm 1899, Doumer tổ
chức lại công việc làm ăn về thuốc phiện, khuếch trương hệ thống bán sản
phẩm này và làm giảm rất nhiều những khoản chi tiêu khác. Sau khi gom 5 cơ
quan thuốc phiện tự trị lại thành một Sở Độc Quyền Thuốc Phiện, Doumer thiết
lập một nhà máy biến chế thuốc phiện ở Sàigòn để biến chế thuộc phiện sống
Ấn Độ thành thuốc phiện đã hoàn chế cho dân nghiền sử dụng. Nhà máy biến chế
mới này sản xuất một loại thuốc phiện đã hoàn chế có thể cháy mau hơn khiến
cho người hút có thể tiêu thụ nhiều hơn thường lệ. Theo chỉ thị của Doumer,
Sở Độc Quyền Thuốc Phiện mua thuốc phiện với giá rẻ ở tỉnh Vân Nam, Trung
Hoa, để các tiệm bán lẻ và những tiệm hút của chính quyền có thể lôi cuốn
được nhiều khách hàng thuộc giới lao động nghèo mà họ không có đủ tiền để
sử dụng loại thuốc phiện đắt tiền mang nhãn hiệu Ấn Độ. Nhà nước lại cho mở
thêm các tiệm hút và các tiệm bán lẻ để đáp ứng cho nhu cầu khách hàng
càng ngày càng gia tăng. (Năm 1918) có 1,512 tiệm hút và 3,098 tiệm bán lẻ).
Việc buôn bán thuốc phiện rất là thịnh đạt.
Là Toàn Quyền Đông Dương, chính Doumerđã hãnh diện tường trình rằng
những cải cách làm tăng thêm tiền thâu nhập về thuốc phiện khoảng 50 phần
trăm trong thời gian bốn năm tại chức của ông ta, chiếm trên 1/3 của tất cả
tiền thâu nhập ở thuộc địa. Tính đến lúc đó, lần đầu tiên trong hơn mười năm
có tiền thặng dư trong ngân khố. Hơn nữa, những cải cách của Doumer còn tạo
cho người Pháp một niềm tự tin mới vào việc đầu tư kinh doanh vào Đông
Dương, và ông ta có thể vận động vay tới 200 triệu Phật lăng để tài trợ cho
nhiều dự án lớn lao. Một phần của những dự án này là dự án làm hệ thống
đường xe lửa ở Đông Dương và nhiều dự án thiết lập nhà thương và trường học.
Thực dân Pháp cũng không có ảo ảnh về cách thức họ tài trợ cho các dự
án phát triển ở Đông Dương. Khi chính quyền loan báo dự án xây đường xe lửa
ngược theo dòng Sông Hồng lên tỉnh Vân Nam ở Trung Hoa, phát ngôn viên của
giới kinh doanh (người Pháp) giải thích một trong những mục đích tiên khởi
của dự án này là:
Điều chú ý đặc biệt là vào lúc người ta sắp sửa bỏ phiếu chuẩn chi
tiền tài trợ cho việc xây cất đương xe lửa đi Vân Nam để tìm phương cách
tăng cường việc buôn bán giữa Vân Nam với Đông Dương… Việc điều hành
thuốc phiện và muối ở Vân Nam có thể được điều chỉnh theo phương cách làm
cho việc buôn bán này dễ dàng và gia tăng khối lượng hàng hóa chuyển vận
bằng đường xe lửa.
Vào trong các thập niên 1920 và 1930, trong khi các nước trên thế giới
lao vào cuộc chiến chống “tội ác thuốc phiện” , bắt buộc các chính quyền
thuộc địa khác ở Đông Nam Á phải giảm bớt dịch vụ độc quyền buôn bán thuốc
phiện, thì chính quyền Pháp ở Đông Dương vẫn thản nhiên, vẫn tiếp tục theo
đuổi buôn bán thứ hàng hóa tội ác này. Khi cuộc đại Khủng Hoảng Kinh Tế xẩy
ra vào năm 1929 làm cho thuế thâu nhập giảm bớt đi rất nhiều, người Pháp lại
cố gắng nâng mức lợi tức (đã giảm đi) của dịch vụ buôn bán thuốc phiện để
quân bình ngân sách. Lợi tức thâu nhập của dịch vụ buôn bán thuốc phiện đã
tăng lên đều đều. Vào năm 1938, tiền thậu nhập do việc buôn bán thuốc phiện
mang lại lên tới 15% của tổng số tiền thuế thâu nhập ở thuộc địa tại Đông
Dương – cao nhất ở Đông Nam Á.”
[2]
Biến cố Nhật Bản hất cẳng chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican tại Đông
Dương vào chiều tối ngày 9/3/1945 và cuộc Tổng Khởi Nghĩa của nhân dân ta
vào ngày 19/8/1945 làm cho công việc làm ăn bất lương này của chính quyền
bảo hộ Pháp - Vatican ngưng trệ.
A.- MIỀN BẮC:
Người viết cố gắng tìm tài liệu nói về vấn đề buôn bán ma túy có liên hệ
với chính quyền Kháng Chiến (1945-1954) do Viêt Minh lãnh đạo và chính quyền
miền Bắc trong những năm 1954-1975, nhưng vẫn không tìm được một tài liệu
nào cả. Đồng thời, lại thấy, các sách giáo khoa môn công dân ở bậc trung
học, đều có ghi lời khuyên dạy “Nghiện hút ma túy sẽ nguy hiểm đến tính
mạng và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.” Như vậy, chính quyền Việt
Nam hiện nay (cũng là chính quyền Kháng Chiến 1945-1954 và chính quyền Bắc
trong những năm 1954-1975) chủ trương tích cực chống việc sản xuất, nhập
cảng, biến chế, phân phối và lưu hành ma túy, ngoại trử việc sử dụng sản
phẩm này trong lãnh vực y khoa.
B.- MIỀN NAM:
Như đã nói ở trên, việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những
năm 1954-1975 là do chính quyền miền Nam chủ mưu: điều khiển việc nhập cảng,
bảo trợ việc biến chế, gói thành gói, mở mang các tiệm hút và phân phối cho
khách hàng tiêu thụ.
Sách sử cho biết, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1950 cho đến tháng 4 năm
1975, việc buôn bán ma túy đều do các chính quyền Bảo Đại, chế độ cha cố Ngô
Đình Diệm, chính quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền quân phiệt
Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chủ trương bất kể gì là sản phẩm này có tác dụng làm
nguy hại cho nòi giống, dân tộc và tiền đồ của đất nước.
Với những hành động vừa phi pháp, vừa bất nhân và dã man, vừa hại nước
hại dân, vừa phản dân tộc, các chính quyền miền Nam đã trở thành những tổ
chức tội ác đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Chính vì
vậy mà sử gia Alfred McCoy mới gọi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm là “Triều
Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” (Diem Dynasty and the Nhu
Bandits” (Alfred McCoy, The Heroin in Southeast Asia (New York:
Harper & Row Publishers, 1972), p. 159). Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho
độc giả có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này.
1.- QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Trong thời kỳ Kháng Chiến 1945-1954, Phòng Nhì Pháp chủ trương tái lập
việc làm ăn bất chính này, rồi cấu kết với băng đảng Bình Xuyên do Bẩy Viễn
cầm đầu và toa rập với Quốc Trưởng Bảo Đại để tái lập việc nhập cảng lậu
thuốc phiện, tiến hành các cơ sở biến chế, thiết lập hệ thống phân phối và
mở mang các tiệm hút. Tuy nhiên, có lẽ một phần vì nhân dân ta đã ý thức
được tác dụng nguy hại của ma túy, và một phần vì chiến tranh đang diễn ra
gay go quyết liệt, khiến cho phần lớn dân ta lao vào cuộc chiến, cho nên con
số người nghiện hút không nhiều như những năm trước năm 1945. Vì thế mà
trong những năm 1950-1954, chỉ có hàng trăm (nghĩa là chưa tới một ngàn)
tiệm hút ở vùng Sàigòn - Chợ Lớn. Lẽ dĩ nhiên, dù nhiều hay ít tiệm hút, số
tiền lời của việc làm ăn bất chính này cũng phải chia theo tỉ lệ phần trăm
cho ông Bảo Đại, Phòng Nhì và Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực của Pháp tại
Đông Dương. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in Southeast
Asia ghi nhận như sau:
“Vào một thời điểm sau năm 1950, quân đội Pháp đặc thưởng cho Bình
Xuyên một món hàng béo bở của thực dân. Đó là việc buôn bán ma túy. Bình
Xuyên khởi công biến chế thuốc phiện sống (do người Mèo sản xuất và được các
lực lượng phụ lực Pháp chuyển về Sàigòn), rồi phân phối cho hàng trăm tiệm
hút ở rải rác trong thành phố Sàigòn Chợ Lớn để cung ứng cho giới dân
nghiền. Họ chia tiền lời của việc làm ăn bất chính theo tỉ lệ đã được ấn
định cho Hoàng Đế Bảo Đại, Phòng Nhì và Quân Đội Phụ Lực của Pháp. Sau này
Đại Tá Lansdale của CIA báo cáo như vậy.” Nguyên văn: “Some time
after 1950 the French military awarded the Binh Xuyen another lucrative
colonial asset, Saigon ‘s opium commerce. The Binh Xuyen started processing
MACG ‘s raw Meo opium and distributing prepared smokers’ opium to hundreds
of dens scattered throughout the twin cities. They paid fixed percentage of
their profits to Emperor Bao Dai, the 2ème Bureau, and the MAAG commados.
The CIA’s Colonel Lansdale later reported that.”[3]
Thật là vô liêm sỉ đến cùng độ của vô liêm sỉ. Đường đường là một vị lãnh
đạo một chính quyền thường được rêu rao là “chính quyền Quốc Gia” của
“những người Quốc Gia chân chính yêu nước” ra đời cùng với “lá cờ
vàng ba sọc đỏ” vào ngày 2/6/1948 để tranh đấu cho tự do dân chủ mà lại
gục mặt xuống đồng lõa với bọn ăn cướp Bình Xuyên và Liên Minh Đế Quốc Thực
Dân Xâm Lược Pháp – Vatican trong việc làm bất chính hại dân hai nước như
vậy! Bộ mặt thật của nhà lãnh đạo đầu tiên của cái gọi là “chính quyền
Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” như thế
đó! Và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” biểu tượng cho chế độ của hạng người
lãnh đạo vô liêm sỉ như thế đó!
Qua những sự kiện này, chúng ta có thể nói là “Đừng tin những gì mà
những kẻ tự xưng là “người quốc gia chân chính” làm, mà hãy nhìn vào những
việc làm vô liêm sỉ này và những hành động bán nước cho Liên Minh Đế Quốc
Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và cho Liên Minh Mỹ - Vatican của bọn
chúng.”
2.- CHẾ ĐỘ CHA CỐ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Hơn một năm sau khi được Liên Mỹ - Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền với
cuơng vị là thủ tướng vào ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng
cầu dân ý gian lận vào ngày 23/10/1955 với dã tâm truất phế QuốcTrưởng Bảo
Đại để tiếm quyền. Làm xong việc làm phản trắc này, ngày 26/10/1955, Ngô
Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước Cộng Hòa Việt Nam và tự phong
là Tổng Thống, rồi cho mở chiến dịch tuyên tuyền rầm rộ bài trừ các tệ đoan
xã hội, trong đó có việc cấm hút thuốc phiện để làm bức bình phong che đậy
việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô và gia đình trị đang được tiến hành.
Năm 1958, sau khi đã củng cố xong quyền lực, anh em nhà Ngô cho tái lập kỹ nghệ buôn lậu thuốc phiện sống, thiết lập các cơ sở biến chế
và khuếch trương kỹ nghệ này bằng cách cấu kết với các tên đầu nậu Ba Tầu
(trong đó có tên Mã Tuyên) ở Chợ Lớn để mở mang các tiệm hút và các tiệm bán
sỉ bán lẻ sản phẩm này ở Sàigòn Chợ Lớn một cách công khai. Vào khoảng năm
1963, công việc làm ăn phi pháp này của chính quyền Diệm khá phát đạt. Riêng
ở Chợ Lớn, con số tiệm hút hoạt động công khai lên đến 2,500 tiệm. Dưới đây
là đoạn văn của tác giả Alfred McCoy viết trong cuốn The Politics of Heroin
in South East Asia về việc làm bất chính hại dân hại nước này của chế độ cha
cố Ngô Đình Diệm:
“Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng
Ngô Đình Nhu quyết định tái lập việc buôn bán nha phiến đê lấy tiền.
Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sàigòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân
nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu
cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người
Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối
thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng
trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một
phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút
thuốc phiện họat động công khai.
Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô
Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc
phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn
mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương Bonaventure
“Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc
phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ
có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô
Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở
Sàigòn, mối liên giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này
khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện
về Sàigòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ
chuyển vận món hàng này về miền Nam Việt Nam..
Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm
vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không
Lực Việt Nam.
Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân
Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp
viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một lý
thuyết gia chính trị của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng
ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch
làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là Sở
Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo
rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân
Đội, và quan trọng nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến
tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong
chính phủ và trong quân đội. Chính quyền Sàigòn kiểm soát chặt chẽ việc
thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng
chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn
hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của
Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán
khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên
cho sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở Sàigòn-Cholon đều có chỉ điểm
viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối
tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc
phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà sở biết được đầy
đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt và nội dung các cuộc họp của
đối tượng. Một số các nhà quan sát cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn
nhân viên mật vụ làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ
tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của
tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ
sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài
như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.
Vì có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của
chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những dịch
vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống
tình báo của ông.”
[4]
Phần trích dẫn trên đây chỉ là có 2 trong số gần 7 trang nói về việc buôn
bán ma túy trong thời chế độc cha cố Ngô Đình Diệm.
Đồng thời, chính quyền Ngô Đình Diệm còn biến miền Nam thành một trung
tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille chuyên
biến thuốc phiện sống thành bạch phiến rổi chuyển vận sản phẩm này sang Bắc
Mỹ để phấn phối cho khác hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác
quốc tế tay ba: (1) Nguồn thuốc phiện sống phát xúat từ miền Nam Việt Nam do
anh em Ngô Đình Diệm cung cấp, (2) trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành
bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời
Pháp điều khiển, và (3) trung tâm phân phố bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền
điểu khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos
Traficante Sự kiện này được hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee
ghi nhận trong csách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm như sau.
“Và năm 1958, khi Diệm – Nhu tái lập lưu thông thuc phiện về Sàigòn,
Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là
vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng
một phi đội máy may riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiếm được nhiều
tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn
con nghiện ở Sàigòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới
- đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường và không chắc
chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho
Guerini bởi vì nó gia tăng thị phân ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế
nào?
Nhu và Rock Francisici đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản.
Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sàigòn cho các ổ hút của Nhu nhưng
hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sàigòn. Tại đây, thuốc
phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại
Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cap
để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và
Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy
được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như
một thứ Bộ TRưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời
trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông
ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở
Marseille một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một
vụ làm ăn ngon lành.
Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo
rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại
giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sàigòn và chuyển hàng xong hết mà không
gặp nhiểu kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong
hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Phi Đội Vận Tải số 1 của
riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp
với CIA]) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sàigòn thực sự trở thành kho
hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng
thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến Mỹ.
Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này.
Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci - thường gọi là Hàng
Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiện tới Sàigòn mà không bị luật
pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy.
Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sấn (tới
phạm vi hoạt động) của Francisci.
Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của
Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện
được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông
trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, đồng thời
nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn
Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có
khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn kiếm được nguồn tài chính
bất minh cần thiết cho cảnh sát và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội
phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách
hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ cũng vậy.
Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô
Đình Diệm đã biến thành nững đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy
toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dinh dáng,
dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và
sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.”[5]
“Giữa tất cả nhũng điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế,
đặt tổng hành dinh tại Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều
hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ thông qua Nhu và kẻ
trung gian là Rock Francisci, cũng là người Pháp.
Bây giờ chúng ta gặp một người Pháp nữa, giống như Rock Francisci, đã
sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này la Matthew Franchini.
Bề ngòai ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là chủ
khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở
Sàigòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng
thuốc phiện của Rock Francisci từ Sàigòn sang các lò bạch phiến ở Marseille.
Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường
dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đương dây chỉ
huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm
morphine vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sàigòn (những chuyến này
do Nhu bảo kê).”[6]
Ngoai ra, lại cón có Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Lào, Trần Kim Tuyên và bọn
Cần Lao tin cẩn, người phụ trách chuyển vận thuốc phiện từ Lào về Sàigòn
nữa.
Theo sự hiểu biết của người viết, tất cả những tên đầu sỏ của hệ thống tổ
chức tội ác quốc tế này đều là những người thấm nhuần triệt để Ki-tô giáo.
Có thể do việc làm ăn bất lương này, anh em ông Ngô Đình Diệm mới bắt đầu
kết thân sống chết với tên Mã Tuyên, một tên đầu nậu khét tiếng trong bang
Triều Châu ở Chợ Lớn. Xin nhắc lại, cũng vì ma túy có tác dụng làm suy yếu
sức khỏe của con người, làm cho gia đình những người nghiện khốn đốn điêu
linh, và làm cho các quốc gia có nhiều người nghiện trở nên suy nhược, cho
nên hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm bán sản phẩm
này cho quảng đại quần chúng, và chỉ cho phép được sử dụng trong phạm vi y
khoa mà thôi. Cũng vì thế mà tác giả Alfred W. McCoy mới gọi chế độ đạo
phiệt gia đình trị Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng
Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.” Alfred W.
McCoy, Ibid., p. 159.
3.- TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Khi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, việc làm ăn bất lương này
chuyển vào tay băng đảng của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Sự kiện này được sách The
Politics of Heroin in South East Asia viết như sau:
“Dĩ nhiên, việc “Phục hồi hệ thống làm ăn cũ” có nghĩa là làm sống lại
việc tham những trên một bình diện đại quy mô để có tiền mặt chi phí những
món tiền thưởng ban phát cho những nhân viên do thám bán thời gian khi họ
mang lại một nguồn tin tình báo mới. Ông (Nguyễn Ngọc) Loan và những chuyên
viên cảnh sát tình báo nhà nghề đã hệ thống hóa vấn đề tham nhũng và quy
định bao nhiêu tiền cho mỗi cơ quan đặc biệt, mỗi viên chức được giữ lại bao
nhiêu cho riêng cá nhân và bao nhiêu phần trăm dành cho bộ máy chính trị của
Thủ Tướng Kỳ. Cá nhân nào tham nhũng quá đáng thì bị khui ra và sẽ bị xử lý.
Những mánh mung thủ đoạn làm tiền bất chính cũng như việc bảo vệ những việc
làm bất chính này và tiền đút lót đều được kiểm soát chặt chẽ. Sau nhiều năm
quan sát và điều nghiên những hoạt động trong hệ thống tham nhũng của ông
Loan, ông Charles Sweet cho rằng có 4 nguồn tham nhũng chính ở miền Nam Việt
Nam: (1) bán các chức vụ và chỗ làm trong chính quyền, (2) tham nhũng trong
các cơ quan hành chánh (biển thủ, toa rập với các nhà buôn và nhà thầu để ăn
chia theo phần trăm trong các dịch vụ giao dịch giữa nhà buôn hay nhà thầu
với các cơ quan trong chính quyền, hối lộ, v.v…, (3) tham nhũng trong quân
đội (ăn cắp vật liệu, gian lận trong sổ lương lính), (4) buôn bán ma túy.
Ông Sweet kết luận rằng, trong 4 loại làm tiền bất chính trên đây, việc buôn
bán ma túy đem lại nguồn lợi tức bất chính quan trọng nhất.
Là người trung gian (ủy nhiệm) của Thủ Tướng Kỳ, ông Loan chỉ đảm
nhiệm việc chỉ huy tất cả các hình thức tham những ở trên bình diện hành
chánh tổng quát và để lại những vấn để tham nhũng tầm thường nhỏ nhặt, tổ
chức và điều hành cho những người phụ tá đáng tín cậy.”
[7]
Trên đây là nói về vấn đề buôn bán ma túy trong những năm ông Nguyễn Cao
Kỳ còn nắm quyền thủ tướng (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương) từ ngày
19/6/1965 cho đến khi ông Nguyễn Văn Thiệu được Liên Minh Mỹ - Vatican đưa
lên làm Tổng Thống vào ngày 3/9/1967:
“Ngày 3/9/1967, nhờ sự tiếp tay của Hồng Y New York là Francis
Spellman (Vatican) và Đại Sứ Ellsworth Bunker, Thiệu được “đắc cử” Tổng
Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) với 34.8% số phiếu.”
[8]
4.- CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT DA TÔ NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Quyền lực của Tướng kỳ bắt đầu sụp đổ kể từ khi cuộc bầu cử tổng thống
được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1967. Kể từ đó, việc làm ăn bất lương
này dần dần lọt vào tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Trần Thiện Khiêm
và Tướng Đặng Văn Quang. Với sự hiện diện của hơn 500 ngàn quân Mỹ và nhiều
ngàn quân lính đồng minh của Mỹ như Úc Đại Lợi, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái
Lan, việc làm ăn này càng phát triển và càng kiếm được nhiều tiền hơn. Cũng
vì thế mà trong thời kỳ này, việc buốn bán ma túy gần như hoạt động công
khai trước mắt người dân và các nhà quan sát quốc tế. Mấy đoạn văn trích dẫn
từ trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia dưới đây sẽ cho chúng
ta một cái nhìn rõ ràng về việc buôn bán ma túy ở miền Nam trong thời ông
Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ và Vatican đưa lên nắm giữ chức vụ tổng thống từ
tháng 9/1967 cho đến ngày 30/4/1975:
“Sự gia tăng đột phá về tầm mức và lợi nhuận trong việc buôn bán ma
túy ở miền Nam do thị trường mới là lính Mỹ càng ngày càng đông cũng
như nhu cầu đã tăng lên của các tổ chức ma túy quốc tế đưa đến kết quả là
gia tăng những băng đảng nhỏ mới xuất hiện để làm ăn trong việc làm phi pháp
này.
Vào khoảng năm 1970, việc buôn bán ma túy ở miền Nam coi như là được
chia làm ba phe đảng quan trọng: (1) Phe Không Quân, (2) Phe chính quyền
(nghĩa là cảnh sát, các cơ quan quan thuế, và cơ quan coi về các hải cảng và
giang cảng) dưới quyền điều khiển của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm
càng ngày càng hoạt động mạnh hơn, và (3) quân đội, hải quân và hạ viện
trong Quốc Hội hoạt động cho phe đảng của Tổng Thống Thiệu.
Có lẽ vì sự “liên hệ” với số tiền lợi nhuận quá lớn trong việc làm phi
pháp này, cho nên giữa những phe đảng này có một mối oán cừu đáng kể.
“Liên hệ” trong việc buôn bán nha phiến túy ở miền Nam có nhiều hình
thức. Thường thường, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong
quân đội nắm giữ vai trò cố vấn hoặc người bảo vệ hay bao che cho các tổ
chức của người Tầu Triều Châu chuyên nhập cảng lậu thuốc phiện sống, rồi
biến chế, gói thành gói và phân phối đến các nơi tiêu thụ. (Triều Châu là
người Trung Hoa từ vùng Tô Châu ở miền Nam Trung Hoa, tổ chức này của người
Triều Châu đã kiểm soát phần lớn hệ thống buôn bán ma túy ở Á Châu từ giữa
thế kỷ 19 và nắm giữ một vai trò trong các tổ chức tội ác ở Trung Hoa, tương
tự như tổ chức tội ác của người Sicilian ở Ý Đại Lợi và người Corse ở Pháp.
Chi tiết về các tổ chức này đã được trình bày ở Chương 6 - trong sách The
Politics of Heroin in Southeast Asia.) Sự quan trọng của việc bảo vệ hay bao
che trong việc làm ăn phi pháp này không thể coi thường hay đánh giá thấp
được, vì rằng không có sự bảo vệ hay bao che thì việc buôn bán ma túy không
thể tiến hành được. Đồng thời, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và
trong quân đội liên hệ trực tiếp rất nhiều vào việc nhập cảng lậu ma
túy vào miền Nam Việt Nam. Những quân nhân miền Nam có thể tới gần các phi
cơ, xe chuyển vận nhà binh, tầu thuyền của hải quân mà người Trung Hoa không
thể tới được, và phần lớn những người Việt Nam có quyền thế có rất nhiều
hoàn cảnh dễ dàng để mang nha phiến qua các cửa ải quan thuế và các trạm
kiểm soát ở biên giới hơn là những người Trung Hoa.”
[9]
“Thiệu nắm quyền chỉ huy.- Vào khi quyền lực chính trị của Thiếu Tướng
Kỳ xuống dốc một cách thảm thương, các sĩ quan cao cấp thân Tổng Thống Thiệu
trở thành những nhân vật nổi trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam.
Giống như những người tiền nhiệm là Tổng Thống Diệm và Thủ Tướng Kỳ, Tổng
Thống Thiệu đã cố tình tránh né để cho cá nhân ông không mang tiếng vào
những việc tham nhũng về chính trị. Tuy nhiên, người ủy nhiệm của ông là
Tướng Đặng Văn Quang, người nắm giữ vai trò cố vấn tình báo tại Phủ Tổng
Thống, lại liên hệ nặng nề vào những việc làm ô nhục và ghê tởm này. Qua
những sĩ quan cao cấp trung thành với chính ông hay với Tổng Thống Thiệu ở
trong quân đội và hải quân, Tướng Đặng Văn Quang đã thiết lập được một lực
lượng hùng hậu tiếp tay cho ông. Dù là đối với quốc tế, tư thế của Tướng
Quang kém hơn tư thế của Tướng Kỳ, nhưng Tướng Quang nắm quyền kiểm soát hải
quân miền Nam. Thế lực này chứa chấp một tổ chức nhập cảng lậu một số lượng
ma túy rất lớn bằng cách sử dụng các tầu thuyền của hải quân để chuyển vận
và được những nhà hàng hải buôn lậu người Trung Hoa bảo vệ. Trong khi ảnh
hưởng của Tướng Kỳ đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội bị suy yếu
nặng nề, thì quyền kiểm soát quân đội lại lọt vào tay Tướng Quang. Vào lúc
này, phần lớn việc phân phối và bán ma túy cho quân lính Mỹ nằm ở trong tay
quân đội. Hơn nữa, khối dân biểu thân Tổng Thống Thiệu ở hạ viện trong Quốc
Hội đã công khai để lộ ra những hoạt động buôn lậu ma túy, nhưng hình như họ
làm ăn độc lập với Tướng Quang hơn là quân đội và hải quân.
Vào ngày 15/7/1971, trong Bản Tin Chiều Tối của đài truyền hình BBC,
phóng viên của đài truyền hình này từ Sàigòn là ông Phil Brady nói với khán
thính giả toàn quốc rằng cả Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ đều dùng
tiền lợi nhuận của buôn bán ma túy để tài trợ cho chi phí vận động tranh cử.
Ông Brady viện dẫn “nguồn tin rất đáng tin cậy” như là nói rằng Tướng Đặng
Văn Quang, cố vấn tình báo của Tổng Thống Thiêu, là “tay buôn bán ma túy lớn
nhất” ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù viên chức phụ trách văn phòng báo chí của
Tổng Thống Thiệu công bố bàn văn phủ nhận thẳng thừng lời lên án trên đây và
tố cáo ông Brady “loan tin ngụy tạo để phỉ báng các nhà lãnh đạo chính quyền
miền Nam nhằm hỗ trợ và làm hài lòng Cộng Sản,” nhưng ông ta lại không cố
gắng bảo vệ Tướng Quang, người nổi tiếng là một trong những các ông tướng
bất lương nhất ở miền Nam Việt Nam khi ông tướng này còn là Tư Lệnh Quân
Đoàn IV ở vùng châu thổ Sông Cửu Long.
Tháng 7 năm 1969, phóng viên của tạp chí Time ở Sàigòn điện về văn
phòng tại New York báo cáo về những hoạt động của Tướng Quang ở vùng IV như
sau:
Có báo cáo rằng Tướng Quang đã kiếm được hàng triệu bạc bằng cách bán
những chức vụ trong chính quyền và thâu tiền bất chính tính theo phần trăm
trong việc sản xuất và bán lúa gạo trong vùng trị nhậm. Có một chuyện nổi
tiếng xẩy ra được ghi rõ ràng trong hồ sơ tham nhũng của ông Tướng này ở
Quân Đoàn IV. Đó là chuyện ông Đại Tá Nguyễn Văn Minh được đưa lên nắm giữ
chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông đại tá này đã từng là sĩ quan phụ tá cho Tướng
Quang ở Quân Đoàn IV. Vào giờ lễ nhậm chức, người vợ của viên tư lệnh phải
ra đi đứng lên la lớn trước mọi người rằng Đại Tá Nguyễn Văn Minh đã trả cho
Tướng Quang 2 triệu đồng [7,300 Mỹ kim] để được nắm giữ chức vụ này… Sau
cùng, theo sự yêu cầu của người Mỹ, Tướng Quang bị mất chức Tư Lệnh Quân
Đoàn IV.
Cuối năm 1966, Tướng Quang được chuyển về Sàigòn và trở thành tổng
trưởng kế hoạch và phát triển, một chức vụ ngồi chơi xới nước để cứu vớt thể
diện. Ngay sau khi Tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống trong kỳ bầu cử được tổ
chức vào tháng 9 năm 1967, Tướng Quang được cho giữ chức vụ phụ tá đặc biệt
về an ninh quân sự và trở thành người ủy nhiệm đặc trách việc làm tiền bất
chính này để gây qũy cho bộ máy chính trị của Tổng Thống Thiệu, giống như
vai trò của Tướng Loan đối với Tướng Kỳ trước đó.
Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không đặt tin tưởng tuyệt đối vào Tướng
Quang như Tướng Kỳ đối với Tướng Loan. Cá nhân Tướng Loan được Tướng Kỳ trao
cho quyền hành hầu như không giới hạn. Mặt khác, Tổng Thống Thiệu thiết lập
nhiều trung tâm ganh đua nhau về quyền lực ở ngay trong bộ máy chính trị của
ông ta để giữ cho Tướng Quang khỏi có quá nhiều quyền lực. Kết quả là Tướng
Quang chẳng bao giờ kiểm soát được tất cả các băng đảng nho nhỏ thân Tổng
Thống Thiệu như vai trò Tướng Loan trong bộ máy chính trị của Tướng Kỳ. Khi
bộ máy kiểm soát các tổ chức làm tiền phi pháp của Tướng Kỳ ở Sàigòn bị suy
yếu từ sau tháng 6 năm 1968, những băng đảng thân Tổng Thống Thiệu tiến vào
thay thế. Trong tình trạng thay đổi quyền lực chính trị như vậy, Tướng Quang
được nắm quyền kiểm soát lực lượng đặc biệt, hải quân và quân đội, nhưng một
trong những băng đảng khác cũng thân Tổng Thống Thiệu do Tướng Trần Thiện
Khiêm chỉ huy nắm được quyền lực đủ mạnh để dần dần tạo thành một băng đảng
riêng rẽ. Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu chiếm được quyền lực vào khi quyền
lực của Tướng Kỳ sụp đổ, hình như quyền lực của phe Tổng Thống Thiệu nằm
dưới quyền điều khiển của Tướng Quang.”
Có bằng chứng cho thấy rằng một trong những nhóm mới bắt đầu nhập cảng
lậu nha phiến vào miền Nam Việt Nam là toán quân trong lực lượng đặc biệt
của miền Nam (nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang) hoạt động ở miền
nam nước Ai Lao. Tháng 8 năm 1972, tờ New York Times tường trình rằng có
nhiều chuyến bay chuyển vận ma túy vào miền Nam Việt Nam “có liên hệ với lực
lượng đặc biệt hoạt động trong hệ thống mật dọc theo Đường Mòn Hồ Chí Minh ở
Ai Lao. Có căn cứ ở tỉnh Kontum, phía bắc Pleiku, toán quân đặc nhiệm của
lực lượng đặc biệt này có không đoàn trực thăng và những phi cơ nhẹ thường
xuyên chuyển vận những toán lính phá hoại vào miền Nam Ai Lao và để thực
hiện những phi vụ do thám. Một vài sĩ quan trong toán lực lượng đặc biệt này
nói rằng vào giữa năm 1971 vị chỉ huy của toán lính này bị chuyển đến một
nơi đồn trú khác vì chuyện ông ta liên hệ nặng nề đến việc chuyển vận ma túy
có cơ nguy bị bại lộ.” [10]
5.- HẠ VIỆN TRONG QUỐC HỘI MIỀN NAM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Kinh tởm hơn nữa là việc buôn bán ma túy không phải chỉ giới hạn trong
ngành hành pháp, cũng không phải chỉ giới hạn trong các binh chủng không
quân, hải quân, lục quân và các đơn vị lực lượng đặc biệt, mà còn lan tràn
sang cả ngành lập pháp. Đoạn văn dưới đây nói về các ông dân biểu trong Quốc
Hội (Ha Viện) làm tay sai cho Nguyễn Văn Thiệu trong hoạt động buôn bán bạch
phiến:
“Tại Hạ Viện, Tổng Thống Thiệu trông cậy vào những thành viên của Khối
Độc Lập để lo việc mà cả và trả tiền (cho những dân biểu làm tay sai cho
ông), hơn là chính cá nhân ông thương lượng trực tiếp hay qua các ông tướng
cố vấn quân sự của ông. Khối Độc Lập trong hạ viện được thành lập từ năm
1967, gồm toàn những tín đồ Da-tô người Bắc Kỳ di cư hung hăng chống Cộng.
Mặc dù, trên danh nghĩa là độc lập, nhưng ngay sau khi vừa mới được thành
lập, vị lãnh tụ của khối này là Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện đến gặp Tổng
Thống Thiệu và “hứa miệng” là ủng hộ tổng thống để được hưởng những ân huệ
(không nói rõ những thứ ân huệ này.) Khối này có ảnh hưởng ra ngoài cả những
thành viên của khối và tất cả các thành viên của khối đều nắm giữ những chức
vụ quan trọng như là các chức chủ tịch của các ủy ban trong hạ viện, thí dụ
như ủy ban vận động quyên tiền gây quỹ, hay viên chức liên lạc thông tin
những lệnh truyền của trưởng khối cho các thành viên trong khối; vỏn vẹn chỉ
có 19 thành viên, Khối Độc Lập nắm giữ 6 trong số 16 chức vụ chủ tịch ủy ban
tại hạ viện. Thí dụ, trong kỳ thảo luận về luật bầu cử tổng thống vào năm
1971, thành viên của Khối Độc Lập là Dân Biểu Phạm Hữu Giao lo việc vận động
cho điều khoản 10 được thông qua. Điều khoản gây tranh luận sôi nổi này đòi
hỏi cá nhân nào muốn ra ứng cử tổng thống thì phải có tối thiểu 40 chữ ký
của các dân biểu quốc hội. Mục đích của điều khoản này là giúp cho Tổng
Thống Thiệu dễ dàng làm cho Phó Tổng Thống Kỳ không thể ra tranh cử được.
Những ngày đầu trong việc thảo luận điều khoản này, Dân Biểu Phạm Hữu Giao
đã mà cả kèo nài với các dân biểu thuộc các sắc tộc thiểu số là 350 Mỹ kim
một phiếu và phần lớn các phiếu của các dân biểu gốc Cao Mên là 700 Mỹ kim.
Tuy nhiên, vào ba ngày tranh luận sôi nổi sau cùng trước khi bỏ phiếu, giá
tiền mỗi lá phiếu nhẩy vọt lên từ 1,000 tới 1,800 Mỹ kim để tranh thủ cho có
đủ túc số 75 phiếu hầu thông qua điều khoản này.
Trung thành với Tổng Thống Thiệu hình như có nhiều lợi lộc. Không có
dân biểu đối lập nào có liên hệ nghiêm trọng đến một vụ buôn lậu nào. Tất cả
dân biểu tại hạ viện có liên hệ đến việc buôn bán bạch phiến và vàng lậu đều
thuộc Khối Độc Lập hoặc là trong hiện tại hoặc là trong quá khứ. Lý do thật
là đơn giản. Các ông dân biểu đối lập thường thường không có đủ tiền cần
thiết để chi phí cho những chuyến đi xuất ngoại như vậy, và cũng không được
bảo đảm lúc trở về “sẽ được tiếp đãi lịch sự khi đi qua cửa ải quan thuế.”
Tuy nhiên, các ông dân biểu thân chính quyền được tài trợ bằng một khoản
tiền (đặc biệt) hoặc là tiền để dành trong những tháng bỏ phiếu và có quyền
được cấp hộ chiếu xuất ngoại bốn (4) lần trong một năm, một đặc ân dành cho
các dân biểu đuợc xuất ngoại vào những ngày Quốc Hội nghỉ, không nhóm họp.
Kết quả là đã có những buổi vui chơi yến tiệc của các ông dân biểu thân
chính quyền ở ngoại quốc với danh nghĩa bề ngoài là đi công tác cho chính
quyền. Trong năm 1969-1970 các ông dân biểu vui chơi yến tiệc ở ngoại quốc
này đã sử dụng tới 821.000 (821 ngàn) Mỹ kim để mua hàng hóa quốc ngoại. Một
dân biểu thân chính quyền thuộc loại nổi đã lưu lại ở ngoại quốc tới 119
ngày trong năm 1969, 98 ngày trong năm 1970, và 75 ngày trong ba tháng đầu
của năm 1971.” [11]
6.- CÁC SƠ ĐỒ BUÔN BÁN NHA PHIẾN TRONG THỜI NGUYỄN VĂN THIỆU
Trên đây chỉ là mấy đoạn trích dẫn từ một vài trang trong cuốn The
Politics of Heroin in South East Asia (của Alfred W. McCoy) dày 375 trang, không kể các trang ghi
chú. Trong cuốn sách này, tác giả dành ra tới 150 trang (từ trang 72 đến
trang 222) để nói về vấn đề ma túy ở miền Nam từ việc nhập cảng lậu sản phẩm
này cho đến các việc thiết lập các cơ sở biến chế, phân phối và mở mang các
tiệm hút ở Sàigon - Chợ Lớn cũng như ở nhiều nơi khác.
Trong số 150 trang nói về việc làm ăn phi pháp này ở miền Nam Việt Nam từ
năm 1950 cho đến năm 1971, tác giả Alfred W. McCoy còn đưa ra 5 bản sơ đồ tổ
chức của những phe đảng của các thế lực cầm quyền ở miền Nam có liên hệ đến
vấn đề buôn bán ma túy trong thời gian này.
1.- Sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo
Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sàigòn – Chợ Lớn trong những năm
1950-1954.
2.- Sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu
Tướng Nguyễn Cao Kỳ có liên hệ đến những hoạt động buôn bán ma túy ở miền
Nam Việt Nam trong những năm 1965-1968.
3.- Sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ đến những hoạt động buôn bán nha phiến ở
miền Nam Việt Nam trong những năm 1970-1971.
4.- Sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về tổ chức Hải Quân Việt Nam được thiết
lập trong thời gian miền Nam xua quân sang tấn công Cao Mên vào mùa Xuân
1970. Dĩ nhiên là tổ chức này có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy
và nằm dưới quyền chỉ huy của Tướng Đặng Văn Quang.
5.- Sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia
đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma
túy phiến trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam.
Trong mỗi sơ đồ trên đây, tác giả đều ghi rõ danh tính của từng cá nhân
phụ trách phần vụ nào trong hệ thống quyền lực và liên hệ đến việc buôn bán
ma túy.
Nhìn vào sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và
tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sàigòn – Chợ Lớn trong
những năm 1950-1954, chúng ta thấy đứng đầu trên hết là Bộ Chiến Tranh tại
Pháp chỉ đạo, kế đến là cơ quan thâu thập tài liệu và phản gián, và Đoàn
Quân Viễn Chinh Pháp (tại Đông Dương).
Đoàn Quân Viễn Chinh tại Đông Dương chỉ đạo hai cơ quan: (1) Phòng Nhì,
và (2) Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực.
Phòng Nhì nối kết với Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên. Sở Liên Lạc Các Đơn
Vị Phụ Lực chỉ đạo Nhóm Không Vận Biệt Kích Hỗn Hợp. Nhóm này nối kết với
Vùng Bắc (Northern Zone). Tại đây có hai nhân vật quan trọng là Touby Lý
Foung (người H. Mong = Mèo ) và Đèo Văn Long (người Thái).
Hai nhân vật này thâu mua thuốc phiện sống sản xuất tại đia phương để
cung cấp cho Phòng Nhì. Phòng Nhì chuyển cho Nhóm Không Vận Biệt Kích chuyển
vận bằng phi cơ vào Sàigòn để giao cho Bình Xuyên. Bình Xuyên cấu kết người
Tầu Triều Châu ở Chợ Lớn lo việc việc biến chế, gói lại thành từng gói rồi
phân phối đến các tiệm bán sỉ, bán lẻ và cho khách hàng tiêu thụ tại các
tiệm hút do Bình Xuyên quản lý.
(Cũng nên biết, phần lớn thuốc phiện sống được sản xuất ở vùng Tam Giác
Vàng (nằm trong vùng Đông Nam Miến Điện,Tây Bắc Thái Lan và Tây Bắc Ai Lao)
do đám tàn quân (khoảng 12 ngàn) Quốc Dân Đảng Trung Hoa chạy sang vùng này
chủ mưu và đảm trách.)
Nhìn vào sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính
trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong những năm 1965-1968, chúng ta thấy
có Quân Đội (một số đơn vị trong quân đội), Không Quân, Thương Cảng Sàigòn
và Sở Quan Thuế. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan
trọng của tổ chức này được nêu đích danh là Bà Nguyễn Thị Lý (chị ruột Tướng
Nguyễn Cao Kỳ), Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia),
Trung Tá Khu Đức Nùng (Biệt phái tại Ai Lao), Tướng Vĩnh Lộc (Tư Lệnh Quân
Đoàn II), Tướng Lê Nguyên Khang (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Đại Tá Trần Văn
Thăng (An Ninh Quân Đội), Đại Tá Phan Ngọc Huấn (Giám Đốc Sở CIO), Đại Tá
Nguyễn Thanh Tùng (Mai Đen), Trung Tá Phó Quốc Chụ (Thương Cảng Sàigòn),
Trung Tá Nguyễn Văn Luận (Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành Sàigòn), Đại Tá
Nguyên Ngọc Xinh (Trường Phòng một cơ quan Cảnh Sát Đô Thành Sàigòn), Thiếu
Tá Lê Ngọc Trụ (Trương Ty Cảnh Sát Quân 5, Sàigòn), ông Nguyễn Văn Lộc (Tổng
Giám Đốc Nha Quan Thuế), Đại Tá Lưu Kim Cương (Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 33
kiêm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhất), và Thiếu Tá Phan Phụng Tiên.
Nhìn vào sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính
trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1970-1971, chúng ta thấy
có Quân Đội, Hải Quân và Hạ Viện trong Quốc Hội. Về danh tính của những nhân
vật chỉ huy các phần vụ quan trọng trong tổ chức này được nêu đích danh là
Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Đoàn I), Tướng Lữ Lan (Tư Lệnh Quân Đoàn
II trong những năm 1968-1970), Tướng Ngô Dzu (Tư Lệnh Quân Đoàn II, kế nhiệm
Tướng Lữ Lan), Tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Tướng Trần Văn
Hai (Tư Lệnh Quân Đoàn IV), Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang (Tư Lệnh Hải Quân, cố
vấn đặc biệt cho Tướng Đặng Văn Quang về Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc
Gia Chống Ma Túy - hết sức khôi hài - NMQ), Đề Đốc Lâm Nguyên Tánh (Tư Lệnh
Phó Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Chống Ma Túy trong Hải Quân – cũng hết
sức khôi hai - NMQ), Hải Quân Đại Tá Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải
Quân), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Việt Nam,
tổng hành dinh tại Sàigòn), Đại Tá Hải Quân Nguyễn Hữu Chí (Tư Lệnh Lực
lượng Tuần Duyên, tổng hành dinh tại Nha Trang), cùng các căn cứ hải quân
tại Rạch Sỏi, Tân Châu, Long Xuyên, v.v…
Cũng trong sơ đồ này, chúng ta còn thấy có tên các ông dân biểu tại hạ
viện trong Quốc Hội như Dân Biểu Phạm Hữu Giao (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn
Nhất vào tháng 8 và tháng 12 năm 1970 vì tội mang vàng lậu và các hàng hóa
lậu thuế khác), Dân Biểu Võ Văn Mầu (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào ngày
10 tháng 3 năm 1971 vì tội mang lậu 9.6 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Phạm Chí
Thiện (bị bắt vào ngày 17/3/1971 tại phi cảng Tân Sơn Nhất vì tội mang lậu 4
kí lô bạch phiến), Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện (bị bắt ở Bangkok vào ngày
18/3/1971 vì tội mang 15 kí lô vàng lậu), Dân Biểu Nguyễn Văn Chính (bị bắt
vào tháng 9/1970 tại phi cảng Tân Sơn Nhất ví tội mang một triệu bạc Việt
Nam ra khỏi nước). Ngoài các dân biểu có thành tích tội ác kể trên, còn có
Dân Biểu Hoàng Thông và Dân Biểu Trần Kim Thoa cũng ở trong băng đảng này.
(Nhiều chi tiết về thành tích buôn bán vàng và ma tuý của các ông dân biểu
thuộc Khối Độc Lập này được trình bày đầy đủ cơi các trang 201-205 trong
sách The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred
McCoy.)
Nhìn vào sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về Tổ Chức Hải Quân có liên
hệ đến vấn đề ma túy trong thời gian quân đội miền Nam tấn công Cao Miên
vào mùa Xuân năm 1970, chúng ta thấy có Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu
(Chỉ Huy Trưởng Các Hạm Đội Việt Nam), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông (Chỉ
Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Các Giang Thuyền), Đại Tá Hải Quân Diệp Quang
Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân Việt Nam), Hải Quân Thiếu Tá Hồ Quang Minh
(Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Giang Thuyền Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long điều hợp
các bộ phận trong khi hành quân). Tất cả các vị sĩ quan này đều liên lạc
trực tiếp với các bộ phận tại Pnom Penh, Neak Luong, Tân Châu và Bình Thủy.
Nhìn vào sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính
trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc
buôn bán ma túy trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam, chúng ta
thấy, đứng đầu là Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ Tướng chính phủ trong những
năm 1969-1971 – đúng ra còn lâu hơn nhiều - NMQ). Tiếp theo là các bà con về
phía bà Trần Thiện Khiêm và bà con về phía Tướng Trần Thiện Khiêm. Bà con về
phía bà Trần Thiện Khiêm thì có Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu (anh em cột chèo với
Tướng Khiêm, nắm giữ chức Đô Trưởng Sàigòn) và Tướng Trần Thanh Phong (vợ
Tướng Phong và vợ Tướng Khiêm có bà con với nhau). Bà con về phía Tương
Khiêm thì có Trần Thiện Khởi (Giám Đốc Nha Bài Trừ hàng lậu trực thuộc Nha
Quan Thuế - hết sức khôi hài - NMQ), Đại Tá Trần Thiện Thanh (Nắm giữ một
chức vụ tại Sàigon Gia Định mà tác giả ghi nhận là Dep. Gov. Gen. Saigon –
Gia Định), và ông Trần Thiện Phương (Giám Đốc Nha Thương Cảng Sàigòn).
7.- MỘT LỜI KẾT
Sau khi cho ra đời cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại” ngày 2/6/1948, các “chính quyền quốc gia” miền Nam liên tục thả cửa cho dân chúng dùng ma túy trong kế hoạch đầu độc dân ta, và triệt tiêu tiềm năng chiến đấu chống lại thế lực của liên minh giặc. Ngay từ năm 1950, Bảo Đại cũng đã có liên hệ chặt chẽ với vấn đề buôn bán ma túy để được chia chác tiền lời của việc làm bất chính, bất nhân và dã man này..
Sau này, trong những năm đất nước bị chia đôi, người Pháp công nhận chủ
quyền độc lập của dân tộc và rút quân về nước. Kể từ đó, Liên Minh Chính Trị
Pháp – Vatican tan vỡ. Liên Minh Chính Trị Mỹ - Vatican thành hình, miền Nam
Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Hoa Kỳ và Vatican (1954-1975). Quốc
Trưởng Bảo Đại bị truất phế và Ngô Đình Diệm được đưa lên thay thế. Kể từ
đây, anh em Ngô Đình Diệm và băng đảng Cần Lao nhẩy lên bàn độc múa
may quay cuồng, thi hành chính sách bạo trị, coi nhân dân miền Nam như chó
như ngựa. Cũng vì thế mà sử gia Nigel Cawthorne mới liệt kê Ngô Đình Diệm
vào danh sách của một trăm tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại.
[12]
Trong thời kỳ này, việc buôn bán ma túy ở miền Nam được anh em nhà Ngô và
đảng Cần Lao triệt để khai thác, khuếch trương và coi như một kế sách quan
trọng vào bậc nhất của chính quyền, biến miền Nam thành kho hàng chứa và
cung cấp thuốc phiện sống (thô) cho trung tâm biến chế và sản xuất bạch
phiến ở Marseille rồi chuyển vận sang Mỹ Châu cho khách hành tiêu thụ ở Hoa
Kỳ”. Cũng vì thế mà tác giả Alfred McCoy mới gọi tập đoàn Da-tô Việt gian
này là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu =
Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.”
Chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sụp đổ vào ngày 1/11/1963, việc buôn
bán túy lọt vào tay bọn Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê
cho Liên Minh Pháp - Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 với những nhân
vật như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Lê Nguyên Khang. Vĩnh Lộc, Nguyễn
Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Ngô Du, Lữ Lan
v.v… và bọn Da-tô Việt gian như Nguyễn Quang Luyện, Phạm Hữu Giao, Nguyễn
Văn Chính, Võ Văn Mầu, Phạm Chí Thiện, Hoàng Thông, v.v…
Nhìn lại từ đầu cho đến cuối, từ ngày được Liên Minh Pháp – Vatican cho
ra đời vào ngày 2/6/1948 cho đến khi ra ngũ tan hàng vào ngày 30/4/1975,
những nhân vật quan trọng, nắm quyền lãnh đạo của cái gọi là “chính quyền
Quốc Gia”, tự phong là những “người Việt Quốc Gia” đều là những tên Da-tô
Việt gian “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, và bọn Việt gian
đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Pháp – Vatican
trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Những người này đều có liên hệ chặt chẽ
với việc buôn bán ma tuý ở và liên hệ với nhiều việc làm ăn bất chính khác
ở miền Nam Việt Nam như đã trình bày trong chương sách nói về vấn nạn tham
nhũng trước đây. Thật là nhục nhã!
“Chính quyền Quốc Gia” và “Người Việt Quốc Gia” (với lá cờ vàng ba sọc đỏ
biểu tượng cho cái chính quyền này và bọn người này) là thế đó! Bới thế cho
nên, khi đặt ra vấn đề “lằn ranh Quốc Cộng” và tranh đấu để duy trì “lá cờ
vàng ba sọc đỏ”, thiết tưởng cũng nên nhớ đến những điều ô nhục này. Nếu không biết hay không nhớ những điều này thì quả thật là không biết gì về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, và không nhận diện được giặc thù của đất nước. Không phân biệt được ai là giặc và ai là cha, tức là biến thành những đứa con hoang của đất
nước.
CHÚ THÍCH
[1] Alfred McCoy, The
Politics of Heroin in Southeast Asia (New York:Harper Colophon Books,
1972), p.74.).
[2] Alfred W McCoy, Sđd., pp.
73-75.
Nguyên văn: “Shortly after the French established a protectorate
over Cambodia (1863) and central Vietnam (1883), and annexed Tonkin
(northern Vietnam, 1884) and Laos (1893), they founded autonomous opium
monopolies to finance the heavy initial expenses of coloniale rule. While
the opium franchise had succeeded in putting southern Vietnam on a paying
basis within several years, the rapid expansion of French holdings in the
1880s and 1890s created a huge fiscal deficit for Indochina as a whole.
Moreover, a hodgepodge administration of five separate colonies was a model
of inefficiency, and hordes of French functionaries were wasting what little
profits these colonies generated. While a series of administrative rerforms
repaired much of damage in the early 1890s, continuing fiscal deficit still
threatened the future of French Indochina.
The man of the hour was a former Parisian budget analyst named Paul
Doumer, and one of his solutions was opium. Soon after he stepped off the
boat from France in 1897, Governor-General Doumer began a series of major
fiscal reforms: a job freeze was imposed on the colonial bureaucracy,
unnecessary expenses were cut, and the five autonomous colonial budgets were
consolidated under a centralized treasury. But most importantly, Doumer
reorganized the opium business in 1899, expanding sales and sharply reducing
expenses. After consolidating the five autonomous opium agencies into the
single Opium Monopoly, Doumer constructed a modern efficient opium refinery
in Saigon to process raw Indian resin into smoker’s opium. The new factory
devised a special mixture of prepared opium that burned quickly, thus
encouraging the smoker to consume more opium than he might ordinarily.
Under his direction, the Opium Monopoly made it first purchases of cheap
opium from China’s Yunnan Province so that government dens and retail shops
could expand their clientele to include the poorer workers who could not
afford the high priced Indian brands. More dens and shops were opened to
meet expanded consumer demand (in 1918 there were 1,512 dens and 3,098
retailed shops). Business boomed.
As Governor-General Doumer himself has proudly reported, these reforms
increased opium revenues by 50 percent during his four years in office,
accounting for one-third of all colonial revenues. For the first time in
over ten years there was a surplus in the tresury. Moreover, Doumer’s
reforms gave French investors new confidence in the Indochina venture, and
he was able to raise a 200 million franc loan, which financed a major public
works program, part of Indochina’s railrway network, and many of the
colony’s hospital and schools.
Nor did the French colonists have any illusions about how they were
financing Indochina’s development. When the government announced plans to
build a railway up the Red River valley into China’s Yannan Province, a
spokesman for the business community explained one of primary goal:
It is particulary interesting. At the moment one is about to vote funds
for the construction of a railway to Yannan, to search for ways to augment
the commerce between the province and our territory…. The regulation of
commerce in opium and salt in Yannan might be adjusted in such a way as to
facilitate commerce and increase the tonnage carried on our railway.
While a vigourous international crusade against the “evils of opium”
during the 1920s and 1930s forced other colonial administrations in
Southeast Asia to reduce the scope of their opium monopolies, French
officials remained immune to such moralizing. When the Great Depression of
1929 pinched tax revenues, they managed to raise opium monopoly profits
(which had been declining) to balance the books. Opium revenues climbed
steadily, and by 1938 accounted for 15 percent of all colonial tax revenues
– the highest in Southeast Asia.”
[3] Alfred McCoy, Sđd.,
tr.118.
[4]Alfred W. McCoy, Ibid., p.
159-161.
Nguyên Văn: “Diem’s Dynasty and the Nhu’s Bandits.- …But Nhu was
determined to go ahead, and to revive the opium traffic to provide the
necessary funding... Although most of Saigon’s opium dens had been shut for
three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were
only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts
with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up
a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months
hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one
Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens
operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.
To keep these outlets supplied, Nhu established two pipelines from Laos
poppy fields to South Vietnam. The major pipeline was a small charter
airline, Air Laos Commercial, managed by Indochina most flamboyant Corsican
gangster, Bonaventure “Rock” Francisci. Although there were at least four
small Corsican airlines smuggling between Laos and South Vietnam, only
Francisci’s dealt directly with Nhu. According to Lt. Colonel Lucien Conein,
a former high ranking CIA officer in Saigon, their relationship began in
1958 when Francisci made a deal Ngo Dinh Nhu to smuggle Laotian opium into
South Vietnam. After Nhu guaranteed his opium shipment safe conduct,
Fracisci’s fleet of twin engine Beechcrafts began making clandestine airdrop
inside South Vietnam on a daily basis.
Nhu supplemented these shipments by dispatching intelligence agents to
Laos with orders to send back raw opium on the Vietnam air force transports
that shuttled back and forth carrying agents and supplies.
While Nhu seems to have dealy with the Corsican personally, the
intelligence missions to Laos were manged by the head of his secret police
apparatus, Dr. Tran Kim Tuyen. Although most account have portrayed Nhu as
the Diem regime’s Machiiavelli, many insiders feel that it was the
diminitiuve ex-seminary student. Dr, Tuyen, who had the real lust and
capacity for intrigue. As the head of the secret police, euphemistically
titled Office of Social and Political Study, Dr. Tuyen commanded a vast
intelligene network that included the CIA financed special forces, the
Military Security Service, and most importantly, the clandesdtine Can Lao
party. Through Can Lao party, Tuyen recruited spies and political cadres in
every branch of the military and civil bureaucracy. Promotions were strictly
controlled by the central government, and those who cooperated with Dr.
Tuyen were rewarded with rapid advancement. With profits from the opium
trade and other officially sanctioned corruption, the Office and Political
Study was able to hire thousands of cyclo-drivers, dance hall girls (”taxi
dancers”) and street vendors as partime spies for an intelligence network
that soon covers every block of Saigon-Cholon. Instead of maintaining
surveillance on a suspect by having him followed, Tuyen simply passed the
word to his “door to door” intelligence net work and got back precise,
detailed reports on the subject’s movements, meetings, and converstions.
Some observers think that Tuyen may have had as many as hundred thousand
full and part time agents operating in South Vietnam. Through this
remarkable system Tuyen kept detailed dosiers on every important figure in
the country, including paricularly complete files on Diem, Madame Nhu, and
Nhu himself which he sent out of the country as a form of personal “life
insurance.”
Since Tuyen was responsible for much of the Diem regime’ foreign
intelligence network, he was able to disguise his narcotics dealing in Laos
under the cover ordinary intelligence work.”
[5] Bradley S. O’ Leary và
Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy [bản tiếng Việt do Phạm
Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000), tr 51-53.
[6] Bradley S. O’ Leary và
Edward Lee, Sđd.,tr 306-307.
[7] Alfred W. McCoy., Sđd..,
tr.169.
Nguyên văn: “Putting “the old system back together again,” of
course, meant reviving large-scale corruption to finance each rewards paid
to these part-time agents whenever they dilvered information. Loan and the
police intelligence professionals systematized the corruption, regulating
how much each particular agency would collect, how much each officer would
skim off for his personal use, and what percentage would be turned over to
Ky’s political machine. Exessive individual corruption was rooted out, and
Saigon-Cholon’s vice rackets, protection rackets, and payoffs were strictly
controlled. After several years of watching Loan’s system in action, Charles
Sweet feels that there were four major sources of graft in South Vietnam:
(1) sale of government jobs by generals or their wives, (2) administrative
corruption (graft, kickbacks, bribes, etc.), (3) military corruption (theft
of goods and payroll frauds), (4) the opium traffic. And out of the four,
Sweet concluded that the opium traffic was undeniably the most important
source of illicit revenue.
As Premier Ky’s power broker, Loan merely supervised all of the various
forms of corruption at a general administrative level, he usually left the
mundane problems of organization and management of individual rackets to the
trusted assistants.”
[8] Chính Đạo, Việt Nam
Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 403.
[9] Alfred McCoy, Ibid., p.
185-186.
Nguyên văn: “The quantum leap in the size and profitability of
South Vietnam’s narcotics trade, due both to the new burgeoning GI market as
well as the increased demand on the part of the international narcotics
syndicates, resulted in a number of new mini-cliques coming into the
traffic.
But by 1970 the traffic appeared to be divided among three major
factions: (1) elements in the South Vietnamese air force, particularly the
air transport wing; (2) the civil bureaucracy (i.e police, customs and port
authority), increasingly under the control of Prime Minister Tran Thien
Khiem’s family; and (3) the army, navy and National Assembly’ lower house,
who answer to President Thieu. In spite, or perhaps because, of the
enormous amounts of money involved, there were considerable anomosity among
the three major factions.
“Involvement” in the nation’s narcotics traffic took a number of
different forms. Usually it meant that influential Vietnamese political and
military leaders worked as consultants and protectors for chiu chau
syndicates, which actually managed wholesale distribution, packaging,
refining, and some of the smuggling. (Chiu chau are Chinese from the Swatow
region of the southern China, and chiu chau syndicates have controlled much
of Asia’ s iilicit drug traffic since the mid 1800s and have played a role
in China’s organized crime similar to the Scilian in Italy and the Corsican
syndicates in France. (Chapter 6 for more details.) The importance of this
protection, however, should not be underestimated, for without it the heroin
traffic could not continue. Also, powerful Vietnamese military and civil
officials are directly involved in much of the actual smuggling of narcotics
into South Vietnam. The Vietnamese military has access to aircraft, trucks,
and ships that the Chinese do not, and most of the Vietnamese have much
easier time bringing narcotics through customs and border checkpoints than
their Chinese clients.”
[10] Alfred McCoy, Ibid.,
pp. 188-190.
Nguyên văn: “Thieu Takes Comand.- In the wake of Air Vice-Marshal
Ky’s precipitous political decline, ranking military officers responsible to
President Thieu appear emerged as dominant narcotics traffickers in South
Vietnam. Like his predecessors, Pressident Diem and Premier Ky, President
Thieu has studiously avoid involving himself personally in political
corruption. However, his power broker pressidential intelligence adviser
Gen. Dang Van Quang is heavily involved in these unsavory activities.
Working through high-ranking army and navy ofiicers personally loyal to
himself or President Thieu, General Quang has built up a formidable power
base. Although General Quang ‘s international network appears to be weaker
than Ky’s, General Quang does control the Vietnamese navy, which houses an
elaborate smuggling organization that imports large quantities of narcotics
either by protecting Chinese maritime smugglers or by actually using
Vietnamese naval vessels. Ky’s influence among high-ranking army officers
has weakened considerably, and control over the army has now shifted to
General Quang. The army now manages most of the distribution and sale of
heroin to American GIs. In addition, a bloc of pro-Thieu deputies in the
lower house of the National Assembly have been publicly exposed as being
actively engaged in heroin smuggling, but they appear to operate somewhat
more independently of General Quang than the army and navy.
On July 15, 1971, edition of the NBC Nightly News, the network’s Saigon
correspondent, Phil Brady, told a nationwide viewing audience that both
President Thieu and Vice-President Ky were financing their election
campaigns from the narcotics traffic. Brady quoted “extremely reliable
sources” as saying that President Thieu’s chief intelligence adviser, Gen.
Dang Van Quang, was “the biggest pusher” in South Vietnam. Although Thieu’s
press secretary issued a flat denial and accused Brady of “spreading
falsehoods and slanders against leaders in the government, thereby providing
help and comfort to the Communist enemy, he did not try to defend General
Quang, renowned as one of the most dishonest generals in South Vietnam when
he was commander of IV Corp in the Mekong Delta.
In July 1969 Time Magazine’s Saigon correspondent cabled the New York
office this report on Gen. Quang’s activities in IV Corps:
While there he reportedly made millions selling offices and taking a rake
off on rice production. There was the famous incidents, described in past
corruption files, when Col. Nguyen Van Minh was being invested as 21st
Division commander. He had been Quang’s deputy corps commander. At the
ceremony, the wife of the outgoing commander stood up and shouted to the
assembled that Minh had paid Quang 2 million piasters [$7,300] for the
position… Quang was finally removed from Four Corps at the insistence of the
Americans.
General Quang was transferred to Saigon in late 1966 and became minister
of planning and development, a face-saving sinecure. Soon after President
Thieu’s election in September 1967, he was appointed special assistant for
military and security affairs. General Quang quickly emerged as President
Thieu’s power broker, and now does the same kind of illicit fund raising for
Thieu’ s political machine that the heavy-handed General Loan did for Ky.
President Thieu, however, is much less sure of Quang than Premier Ky had
been of General Loan. Loan had enjoyed Ky’s absolute confidences and was
entrusted with almost unlimited personal power. Thieu, on the other hand,
took care to build up competing centers of power inside his political
machine to keep General Quang from gaining too much power. As a result,
Quang has never had the same control over the various pro-Thieu
mini-factions as Loan had over Ky’s appratus. As the Ky apparatus’ s control
over Saigon’s rackets weakened after June 1968, various pro-Thieu moved in.
In the political shift, General Quang gained control of the special forces,
the navy, and the army, but one of the pro-Thieu cliques, that headed by
Gen. Tran Thien Khiem, gained enough power so that it gradually emerged as
an independent faction itself. However, at the very beginning most of the
power and influence gained from Ky’ downfall seemed to be securely lodged in
the Thieu camp under General Quang’s supervision.
There is evidence that one of the first new groups which began smuggling
opium into South Vietnam was the Vietnamese special forces contigents
operating in southern Laos. In August 1971, The New York Times reported that
many of the aircraft flying natcotics into South Vietnam “are connected with
secret South Vietnamese special forces operating along the Ho Chi Minh Trail
network in Laos.” Based in Kontum Province, north of Pleiku, the special
forces “assault task force” has a small fleet of heliccopters, transports,
and light aircraft that fly into southern Laos on regular sabotage and long
range-reconnaissance forays. Some special forces claim that the commander of
this unit was transferred to another post in mid 1971 because his existence
involvement in the narcotics trafic risked exposure.”
[11] Alfred McCoy, Ibid.,
pp. 201-202.
Nguyên văn: “In the lower house, President Thieu relied on members
of the Independence Bloc to do the bargaining and make the payments, rather
than negotiating personally or working through his military advisers.
Consisting almost entirely of North Vietnamese Catholic refugees, this bloc
has maintained a militantly anti-Communist position since it was formed in
1967. Although the bloc is nominally independent, its leader Rep. Nguyen
Quang Luyen met with President Thieu soon after it was formed and “verbally
agreed” to support the president in exchange for unspecified favors. The
bloc has influence far beyond its numerical strength, and all its members
occupy key positions as committee chairmen, fund raisers, or whips; with
only nineteen members, the Independence Bloc controls six out of lower
house’s sixteen committee chairmanships. During the debates over the 1971
election law, for example, it was an Independence Bloc member Pham Huu Giao
who floor managed the passage of article 10. This controversial clause
required a minimum of forty Congressional signatures on every nominating
petition for upcoming presidential election and made it possible for
President Thieu eliminate Ky from the running. Early in the debates, Rep.
Pham Huu Giao reported tied down a few hill tribe votes for as little $350
apiece and most of Cambodian minority’s ballots for a mere $700 each.
However, in the three days of intense bargaining preceding the final
balloting, the price jumped from $1.000 to $1.800 for final handful that
completed the proposal’s winning tally of seventy five votes.
Loyalty to Thieu seems to have its benefits. No opposition members have
even implicated in a sreious smuggling case. All lower house representatives
implicated in the heroin and gold traffic are either present or past members
of the Independence Bloc. The reason for this is simple; opposition deputies
often lack the necessary capital to finance such trips, and are not
guaranteed “courtesy of the port” when they return. However, pro-government
deputies who are bankrolled by an official travel grant or savings from
months of voting the right way are able to take advantage of their four exit
visas per year, a privilege guaranteed all deputies for foreign travel
during the legislative holidays. The result has been an orgy of foreign
junketeering on the part of pro-government deputies. In 1969-1970
junketeering representatives purchased $821.000 worth of foreign currency
for their travel. One pro-government representative was abroad for 119 days
in 1969, 98 days in 1970, and 75 days during the first three months of
1971.”
[12] Nigel Cawthorne,TYRANTS
History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:Acrturus, 2004), pp.
167-168.
© sachhiem.net
Các bài trong tập sách
▪ 2012-04-17 - VATICAN:CH05 - Đạo Lý Dân Tộc Và Đạo Lý Ca-Tô: Khác Nhau về Chủ Đích Giáo Dục - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-04-09 - VATICAN:CH05 - Phân Biệt Đạo Lý và Tôn Giáo - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-03-21 - VATICAN:CH05 - Đạo Lý Dân Tộc Và Đạo Lý Ca-Tô: Khác Nhau về Cách Truyền Bá Tư Tưởng - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-03-13 - VATICAN:CH05 - Đạo Lý Dân Tộc Và Đạo Lý Ca-Tô: Khác Nhau về Quan Niệm Thần Linh - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-03-06 - VATICAN:CH02 - Tiến Trình Đạo Ki Tô Do Thái Biến Thể Thành Đạo Ki Tô La Mã - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-01-10 - VATICAN:CH01 -Sự Hình Thành "Đạo Phiệt Do Thái" Và "Đạo Ki Tô Do Thái" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2012-01-10 - VATICAN:CH01a -Đạo Ki-tô Do Thái Ra Đời Vào Khi Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2011-11-05 - Quan Niệm Về Chính Thống Hay Chính Nghĩa Của Người Lên Cầm Quyền - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:Chương Dẫn Nhập tt - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:Chương Dẫn Nhập - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH92-4 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH92-3 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH92-2 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH92-1 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH91 - Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH8- Phụ Bản - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH8- Hủy Diệt Nền Văn Minh Nhân Loại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH63-1g Những Việc Làm Tàn Ngược Của Ông Diệm - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH63-1f Tình Trạng Ngu Dốt Của Ông Diệm - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - VATICAN:CH63-1e Những Đặc Tính Chung của Các Tín Đồ Ca-tô - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1 2 3 ▪ >>>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét