Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Quan hệ Việt-Mỹ: thân nhau cho đến bao giờ?

14/11/2012- (American Review Nov 2012) Sự vươn dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã đưa Việt Nam và Mỹ xích lại gần nhau hơn, nhưng điều này sẽ kéo dài được bao lâu?

Nayan Chanda/American Review
Lê Quốc Tuấn chuyển dịch Việt Ngữ


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Ngoại trưởng Mỹ bà H. Clinton ngày 10/07/2012 tại Hà Nội

Vui lòng cân nhắc khi xem

Trong những ngày sau khi chiếc trực thăng cuối cùng nhấc mình khỏi bãi đáp trực thăng toà đại sứ Hoa Kỳ, bầu trời Sài Gòn rơi vào im lặng và những người chiến thắng đã bận rộn dương cao màu vàng đỏ tiêu chuẩn của Mặt trận Giải phóng Dân tộc trên cột cờ của các cơ quan đại diện nước ngoài. Riêng toà đại sứ như một pháo đài của Mỹ là không có lá cờ quân giải phóng. Được hỏi về lý do cho ngoại lệ này, một nhân viên từ Hà Nội quả quyết với tôi bằng một nụ cười: "Người Mỹ sẽ quay lại ngay." Như ông giải thích, "Người Mỹ lo lắng về sự bành trướng của Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam đã là rào cản lớn nhất chống lại đường tiến về phương Nam của Bắc Kinh."

Đầu năm nay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã được cấp cho một cuộc tham quan mời gọi đến Vịnh Cam Ranh nổi tiếng vốn đã từng nổi bật trong trí tưởng tượng chiến lược của Mỹ. Điều này không phải là để cho thấy rằng Mỹ và Việt Nam đang ở đâu đó gần với loại hợp tác chiến lược mà những người kể chuyện Việt Nam của tôi từng mơ ước vào năm 1975, nhưng là hành trình ngoằn ngoèo của sự hòa giải và việc tái lập mối quan hệ hữu nghị giữa hai đối thủ vẫn còn là một câu chuyện hấp dẫn. Câu chuyện ấy cũng cung cấp các bài học có giá trị trong sự tương tác của ba yếu tố - địa chính trị, chủ nghĩa yêu nước và ý thức hệ - từng định hình các biến đổi rực rỡ muôn hình vạn trạng. Lịch sử hai ngàn năm quan hệ yêu ghét của Việt Nam với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc, tham vọng quốc gia của mình và mối quan tâm của Đảng Cộng sản cầm quyền để duy trì chế độ có thể giải thích được con đường khó khăn đi đến bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.

Năm 1975, vào lúc kết thúc cuộc chiến, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tự hào với chiến thắng lịch sử của mình, muốn xây dựng lại đất nước bị tàn phá nhưng lại lo lắng về những dấu hiệu thù địch công khai từ phía Trung Quốc. Từ những cân nhắc đến khía cạnh địa chính trị rộng lớn, mối lạc quan về cuộc phục hồi quan hệ nhanh chóng với Washington có thể là suy nghĩ hợp lý, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm tổng thể về chính sách năng động của Mỹ. Bất chấp mong muốn khôi phục lại quan hệ với tất cả các cựu thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc của Tổng thống Jimmy Carter, cuộc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã chứng minh là không thể thực hiện. Carter đã không thể chia sẻ được tâm nhìn xa của Việt Nam và về phần mình Việt Nam đã đánh giá thấp những vết thương chiến tranh tâm lý sâu sắc của Mỹ. Trong khi muốn quan hệ với Washington để cân bằng với sức mạnh của Trung Quốc, Việt Nam lại quá tự hào về cuộc chiến thắng đến mức từ bỏ các chiến lợi phẩm từ cuộc chiến - lời hứa viện trợ tái thiết của Mỹ trong hiệp định hòa bình Paris năm 1973. Sau khi các cuộc đàm phán về bình thường hoá bị sụp đổ vào năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua một sự thay đổi bất lợi đáng kể cho Việt Nam kéo dài gần hai thập kỷ.

Bốn năm sau khi kết thúc của cuộc chiến tranh dài, một lần nữa Việt Nam lại ở trong tình trạng chiến tranh trên nhiều mặt trận phía bắc và phía tây của mình. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ tấn công vào biên giới phía tây trong năm 1977-78, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng nhân dân Campuchia của Việt Nam. Trung Quốc trả đũa bằng một cuộc xâm lược trừng phạt miền Bắc Việt Nam vào năm 1979. Giai đoạn này đã bắt đầu một thời kỳ kéo dài hàng thập kỷ, trong đó Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế ở trong nước và bị cô lập ở bên ngoài. Áp lực của liên minh trên thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc và sự hỗ trợ của liên minh do Khmer Rouge lãnh đạo trở nên phức tạp bởi việc mất đi ủng hộ từ Liên bang Xô Viết vốn đang cải tổ. Các cuộc đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy bởi những yêu cầu bất tận của Mỹ về trách nhiệm với tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích (MIA) trong chiến tranh. Giới bảo thủ trong chính quyền và quân đội, những người không bao giờ tha thứ cho Việt Nam vì đã sỉ nhục quốc thể Hoa Kỳ, tìm cách khôi phục lại danh dự của đất nước bằng cách phải đưa hài cốt các liệt sĩ về nước và duy trì lệnh cấm vận làm tê liệt thương mại từng áp đặt từ năm 1975. Để ra khỏi các khó khăn kinh tế và bị cô lập ngoại giao, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới cải cách của mình và bắt đầu rút hết quân ra khỏi Campuchia vào năm 1989.

Vào thời điểm Việt Nam gần rút quân theo yêu cầu của Mỹ, ASEAN và tham dự các cuộc đàm phán về tương lai chính trị của Campuchia, bối cảnh địa chính trị đã thay đổi một lần nữa. Cuộc tái lập quan hệ hữu nghị Trung-Xô và sự cô lập Bắc Kinh của quốc tế sau vụ thảm sát Thiên An Môn không chỉ thay đổi môi trường bên ngoài mà còn dấy lên những lo ngại về an ninh của chế độ. Các cuộc biểu tình lớn ở Trung Quốc, kết thúc trong đàn áp bạo lực tại Thiên An Môn và sự sụp đổ liên tục như những quân cờ domino của những chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiếp theo sau đó làm vang lên hồi chuông cảnh báo ở Bắc Kinh và Hà Nội. Trong khi hết sức cần viện trợ và thương mại với phương Tây, Việt Nam lại cảnh giác với "diễn biến hòa bình" và sự lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa nhân danh hỗ trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa của chính quyền George HW Bush đã bị nhìn vào bằng sự nghi ngờ sâu sắc. Sự thất bại không đạt đưọc bình thường hóa của Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao hàng đầu của Việt Nam, bất chấp những nhượng bộ về MIA và rút quân khỏi Campuchia, khiến Hà Nội phải thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc của mình. Một cuộc họp hội nghị thượng đỉnh bí mật giữa các nhà lãnh đạo đảng Trung Quốc và Việt Nam đã được tổ chức tại Thành Đô vào ngày 4 và ngày 05 tháng 9 năm 1990. Đấy là nền tảng cho cuộc suy giảm dần dần mối xung đột giữa Trung Quốc với Việt Nam và một thỏa thuận để thành lập một chính phủ liên minh tại Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.

Với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra, mục tiêu chính của Việt Nam trong việc tìm kiếm quan hệ với Washington là về hợp tác kinh tế. Nhưng Việt Nam vẫn còn đặt nặng vào việc bảo vệ nhằm chống lại mối đe dọa đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trớ trêu thay, chính quyền Dân chủ dưới thời Bill Clinton đã chứng tỏ là cứng rắn hơn với Việt Nam so với thời chính quyền Cộng hòa trước đó. Bị thúc ép bởi các chính trị gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gia tăng áp lực về MIA và các vi phạm quyền con người. Mặc dù giới kinh doanh nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam và phối hợp vận động hành lang để buộc Washington cuối cùng phải đồng ý nương nhẹ lập trường của mình. Tháng hai năm 1995, Mỹ bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, và lời thông báo khôi phục quan hệ ngoại giao đã đến vào tháng Bảy. Cuối cùng, vào ngày 05 Tháng Tám năm 1995 (30 năm sau khi chiến tranh kết thúc), khi Tổng trưởng Ngoại Giao Warren Christopher kéo ngọn cờ sao sọc lên cao trong toà Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội, mối quan tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Không còn là quan tâm đến một liên minh chiến lược như đã từng để mở cửa nền kinh tế ra thế giới và, cụ thể, là để giành được chế độ tối huệ quốc trong thương mại.

Sự dè dặt của Việt Nam được xem như là một đồng minh với Mỹ để chống lại Trung Quốc đã trở nên rõ ràng trong tháng 3 năm 2000. Bộ trưởng Quốc phòng William Cohen trở thành vị quan chức nội các đầu tiên đến thăm Việt Nam, nhưng Hà Nội đã nỗ lực theo cách riêng của mình để thông báo rằng không hề có thương thảo gì về các mối quan hệ chiến lược. Ngay cả khi Clinton đến Việt Nam vào tháng 12 năm 2000, một chỉ thị mật của Ủy ban Trung ương đã yêu cầu các đảng viên phải hiển thị một "khuôn mặt lạnh" với Clinton. Khoảng cách giữa người dân và Đảng Cộng sản đã không thể lạnh lẽo hơn. Tôi đã chứng kiến hàng ngàn người dân Sài Gòn trẻ tuổi vượt qua các rào cản công an, nhào đến xe tổng thống hò reo "Bill, Bill". Đối với Đảng Cộng Sản, đó là sự kiện Mỹ thuần phục và công nhận Việt Nam chứ không phải là Việt Nam đang tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ vì mục đích ở Bắc phương. Trong cuộc họp với Clinton, tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã dạy tổng thống một bài học về lịch sử vẻ vang chống ngoại xâm của Việt Nam, và đã chẳng hề bàn thảo gì về hiện tại hay tương lai của mối quan hệ với Hoa Kỳ. Vì thế, Việt Nam đã phải đợi thêm ba năm nữa và chờ sự thay đổi ở môi trường bên ngoài.

Nhiệm kỳ tổng thống Bush lần thứ hai dường như đã di chuyển ra khỏi thái độ hơi nịnh nọt mà Mỹ từng có với Trung Quốc trong sự trỗi dậy của sự cố máy bay gián điệp EP-3. Thậm chí trước cả cuộc căng thẳng vì vụ máy bay do thám, dư luận quan trọng tại Washington đã bày tỏ quan ngại về việc phô trương sức mạnh của Trung Quốc. Zalmay Khalilzad, một trong những tác giả tập báo cáo của tập đoàn RAND, người sau đó trở thành cố vấn an ninh quốc gia, lưu ý rằng Hoa Kỳ nên thúc đẩy hiện diện quân sự tổng thể ở châu Á để đáp ứng với quyền lực gia tăng của Trung Quốc. Bản báo cáo chỉ ra rằng "có một logic cơ bản để hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm ngăn chặn một cuộc dự tranh làm bá quyền trong khu vực của Trung Quốc. Khi Washington bắt đầu tập trung vào việc thay đổi sự cân bằng trong khu vực Đông Á, các quyền lợi của Mỹ tại Việt Nam trở nên có ý nghĩa chiến lược.

Việt Nam cũng lo lắng về áp lực tiếp tục của Trung Quốc ở Biển Đông và ở các tỉnh dọc theo biên giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng sáu năm 2003, đảng phỏng đoán rằng tình hình ở Đông Á đã phát triển theo hướng bất lợi và phải thực hiện những nỗ lực để phát triển mối quan hệ với Mỹ. "Thế cân bằng đã mất" như Việt Nam đã nói với các quan chức Mỹ. Quan hệ Mỹ Việt rất yếu, trong khi quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện rất nhiều và ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực đã gia tăng. Mối nhận thức lẫn nhau mới này đã dẫn đến chuyến thăm đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tới Washington vào tháng 11 năm 2003. Tiếp theo là chuyến ghé cảng đầu tiên của tàu của Hải quân Mỹ USS Vandergrift đến thành phố Hồ Chí Minh.

Cao điểm của mối quan hệ nồng ấm đã đến trong tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên được tiếp đãi tại Nhà Trắng. Trong bản tuyên bố chung, George W. Bush và Khải cho biết cả hai cùng "chia sẻ tầm nhìn về hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Đông Nam Á, khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng ý sẽ hợp tác song phương và đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này. Sự bao gồm các cụm từ "khu vực châu Á-Thái Bình Dương" trong thông cáo là ám chỉ công khai duy nhất về các mối quan hệ vượt quá giới hạn song phương hoặc thậm chí có tính khu vực Đông Nam Á. Khải đã ký một thỏa thuận về tình báo an ninh với Hoa Kỳ cho phép hợp tác về chống rửa tiền và tham gia chia sẻ thông tin tình báo với Washington.

Mối quan hệ Mỹ Việt đã trở nên sâu sắc hơn trong bối cảnh sức mạnh và tính quyết đoán ngày càng tăng trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã đến thăm Hà Nội trong một cuộc họp các bột trưởng ASEAN trong năm 2010, ở đó bà đã bày tỏ mối quan tâm của Hoa Kỳ về hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, đánh dấu một cấp độ mới của sự hợp tác với Việt Nam. Năm sau, Hoa Kỳ và Việt Nam tham gia vào các cuộc thảo luận để nâng cao mối quan hệ song phương lên một quan hệ đối tác chiến lược. Mối quan hệ về quân sự đã trưởng thành. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam năm 2003 đến Washington đã quyết định rằng các chuyến thăm cao cấp tương tự sẽ diễn ra mỗi ba năm một lần. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ qua lại thăm viếng nhau bốn lần. Chuyến thăm tháng 6 năm 2012 của Leon Panetta đã thu hút chú ý nhiều hơn trong bối cảnh mối quan hệ Mỹ-Trung bị xấu đi. Panetta đã được chào mời đi thăm cảng Cam Ranh, nơi từng là căn cứ hải quân và máy bay ném bom tầm xa của Liên Xô.

Trong khi mối quan hệ đã phát triển đáng kể trong thập kỷ qua, sự tương tác của ba yếu tố tiếp tục chi phối mối quan hệ. Một nướcTrung Quốc với quân sự mạnh mẽ đặt ra một mối đe dọa lớn hơn cho chủ quyền của Việt Nam hơn bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn chia xẻ chung sự lo ngại về một mối đe dọa từ phương Tây đến hệ thống chính trị của họ, cùng lúc ấy, tất cả lại cùng muốn tìm kiếm hợp tác kinh tế của Tây phương để xây dựng quốc gia thịnh vượng và mạnh mẽ.

Năm 1978, một nhà ngoại giao Việt Nam, Lưu Doanh Huỳnh, giải thích logic đằng sau cuộc vun trồng quan hệ với Moscow của Việt Nam: "Trong lịch sử, chúng tôi chỉ đã được an toàn với Trung Quốc trong hai hoàn cảnh. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ bị chia rẽ. Hai là khi họ bị đe dọa bởi những kẻ man rợ từ phía bắc. Trong thời đại hiện nay, người Nga là những kẻ man rợ của chúng tôi . Cùng một logic ấy có thể được áp dụng cho nhu cầu vun xới quan hệ với Mỹ của Việt Nam hiện nay - một người bạn mạnh mẽ để ngăn chặn Trung Quốc quá hung hăng. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam thường xuyên nhắc nhở người nước ngoài, một quốc gia có thể chọn bạn của mình nhưng không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên điều thú vị là, Việt Nam sẽ xa lánh bất kỳ liên minh quân sự nào với Washington vốn có thể kích động sự thù địch với người láng giềng khổng lồ của mình hoặc làm cho chính phủ Việt Nam bị tổn thương với áp lực của Mỹ về dân chủ và nhân quyền. Cải thiện quan hệ giữa hai nước là có thật nhưng do đó có những giới hạn.

Nguồn: http://americanreviewmag.com/stories/The-slow...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét