Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Trung Quốc đồng ý bắt tay với Đài Loan bảo vệ chủ quyền Biển Đông

31/10/2012- Chỉ hơn một tuần lễ sau khi được các “học giả” Trung Quốc và Đài Loan khuyến nghị là hai bên nên hợp sức bảo vệ chủ quyền Trung Quốc trên vùng Biển Đông, chính quyền Bắc Kinh vào hôm nay, 31/10/2012 đã bắn tin cho biết hoàn toàn tán đồng ý kiến này.


Cờ Trung Quốc cắm trên một cụm nhà giàn tại một đảo ở Trường Sa (REUTERS)

Theo phát ngôn viên cơ quan đặc trách Đài Loan của Trung Quốc, người ở cả hai bên eo biển Đài Loan (tức là Trung Hoa Lục địa và Đài Loan) có nhiệm vụ bảo tồn chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông.

Trả lời các phóng viên nhân một cuộc họp báo, ông Dương Nghị, phát ngôn viên của Quốc Đài biện, tức định chế của Nhà nước Trung Quốc chuyên trách vấn đề quan hệ với Đài Loan cho rằng việc phối hợp với nhau để bảo vệ chủ quyền biển đảo Trung Quốc là “nghĩa vụ” của đồng bào ở cả hai bên.

Theo quan chức này, các đề xuất liên quan đến nội dung hợp tác giữa Đài Loan và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, đến từ mọi tầng lớp xã hội ở hai bên eo biển Đài Loan, đều đáng được hoan nghênh : « Chúng tôi sẽ rất hân hạnh khi thấy các cuộc thảo luận về chủ đề này của các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ ở cả hai bên eo biển Đài Loan ».

Trả lời một câu hỏi khác, ông Dương Nghị cũng khẳng định rằng quần đảo Điếu Ngư/Senkaku - hiện do Nhật Bản kiểm soát - là một phần vốn có của lãnh thổ Trung Quốc, mà mọi người ở cả hai bên eo biển Đài Loan cũng có nghĩa vụ phối hợp để bảo vệ chủ quyền.

Như tin chúng tội đã loan, ngày 23/10/2012, ông Ngô Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc đã cho biết là giới học giả Trung Quốc và Đài Loan đã quyết định khởi động chương trình nghiên cứu để khẳng định được trước cộng đồng quốc tế tính chất hợp pháp của tấm bản đồ hình chữ U mà Bắc Kinh đã công bố để xác định chủ quyền Trung Quốc trên hầu như toàn bộ vùng Biển Đông.

Các học giả này còn đề nghi chính quyền hai bên đưa chủ đề Biển Đông vào chương trình nghị sự các cuộc đàm phán giữa hai bên, và nhất là hợp tác để đồng thăm dò và khai thác dầu khí, kể các trong các vùng đang tranh chấp như chung quanh quần đảo Trường Sa.

Phải nói rằng việc Đài Loan Trung Quốc tìm cách bắt tay với nhau trên vấn đề Biển Đông không làm giới phân tích ngạc nhiên. Trả lời phỏng vấn của RFI, tướng Daniel Schaeffer từng nhấn mạnh rằng tấm bản đồ hình lưỡi bò từng được Quốc dân đảng Trung Quốc vẽ ra từ trước lúc họ bị đẩy qua Đài Loan, và sau này, Bắc Kinh chỉ lấy lại tấm bản đồ đó, sửa đổi đôi chút rồi chuyển lên Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2009. Trong bối cảnh đó, trên hồ sơ Biển Đông, theo tướng Schaeffer, Đài Loan với Trung Quốc “đứng chung một chiến tuyến”.

Cho dù vậy, Đài Loan luôn luôn đòi được tham gia vào các cuộc đàm phán giữa các nước có tranh chấp tại Biển Đông. Theo hãng tin Đài Loan CNA vào hôm qua, 30/10/2012, một quan chức cao cấp bộ Ngoại giao Đài Loan lại bày tỏ hy vọng được phép tham gia các cuộc thảo luận với các thành viên ASEAN về các quy tắc ứng xử tại vùng Biển Đông.

Đối với quan chức này, việc Đài Loan bị gạt ra bên lề các cuộc đàm phán về Biển Đông là điều đáng tiếc vì Đài Loan cũng là một bên có tranh chấp chủ quyền. Phải nói là yêu sách chủ quyền của Đài Loan tại Biển Đông cũng rộng khắp như đòi hỏi của Trung Quốc.

MP3: Trung Quốc và chiến lược "lãnh địa hóa" Biển Đông:

Nghe:

Theo RFI

Ukraina xây nhà máy tuabin khí cho tàu chiến Việt Nam

31/10/2012- TPO – Thông tin website của Zorya cho biết, trong chuyến thăm của Đoàn Quốc phòng VN tới Cty Zorya - Mashproekt của Ukraina, hai bên thảo luận xây dựng xưởng sửa chữa, cơ sở thử nghiệm động cơ tuabin khí tàu chiến Việt Nam.


Theo thông báo chính thức trên website của công ty này, chuyến thăm của đoàn các quan chức quân sự cấp cao của Việt Nam, dẫn đầu là một Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Chuẩn Đô đốc hải quân.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, đoàn quân sự Việt Nam cũng đã đến thăm nhà máy sản xuất và lắp ráp, cũng như được trực tiếp kiểm tra, tổ chức thử nghiệm các động cơ tuabin khí do nhà máy của công ty Zorya - Mashproekt đang chế tạo cho các tàu chiến của Hải quân Việt Nam.

Cũng theo Zorya, Zorya - Mashproekt chính là nhà cung cấp các động cơ đẩy cho 4 tàu tên lửa lớp Molniya đang được đóng tại Việt Nam.

Đây là kết quả của sự hợp tác giữa Zorya-Mashproekt (Ukraina) và Nhà máy đóng tàu Vympel (Nga) về việc cung cấp các động cơ tàu thủy, trong khuôn khổ thỏa thuận Liên Chính phủ Nga - Ukraina.

Theo hợp đồng, trong giai đoạn 2011 - 2013, doanh nghiệp sản xuất động cơ tàu thủy Zoria-Mashproekt sẽ cung cấp các động cơ tuabin khí M-15 để lắp đặt trên 4 tàu tên lửa lớp Molniya đang đóng ở Việt Nam dưới sự giám sát về chuyên môn, kỹ thuật của các kỹ sư từ Viện thiết kế Hải quân Trung ương (TsMKB) Almaz ở St Petersburg cùng với các kỹ sư của nhà máy đóng tàu Vympel.

Theo Tiền Phong

Tiết lộ bí quyết tiếp cận thị trường vũ khí Việt Nam

31/10/2012- Việc sẵn sàng chuyển giao bí quyết công nghệ cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam có thể sẽ mở ra cơ hội tiếp cận cho những đối tác nước ngoài tiềm năng.


ADS Reports mới đây vừa đưa ra bản báo cáo liên quan đến thị trường vũ khí Việt Nam trong thời gian gần đây, nhìn từ bên ngoài..

Khi Việt Nam bắt tay vào quá trình hiện đại hóa các lực lượng vũ trang, những đối tác trên khắp thế giới đã xếp hàng với hy vọng có thể chiếm được một phần thị trường quốc phòng hấp dẫn.

Trong đó, Nga - nhà cung cấp vũ khí truyền thống cho Hà Nội, gửi tín hiệu rằng họ sẽ làm mọi thứ để giữ được thị trường vũ khí của mình ở Việt Nam.

Sau khi đã ký một hợp đồng cung cấp cho Việt Nam 6 tàu ngầm lớp Kilo, xây dựng cơ sở hạ tầng và căn cứ tàu ngầm cũng như cung cấp bổ sung thêm các chiến đấu cư Sukhoi Su-30MK2 cho Hà Nội, tháng 3-2012, Moscow đã công bố rằng họ đã ký kết một thỏa thuận cùng hợp tác phát triển tên lửa chống hạm và máy bay không người lái (UAV) với ngành công nghiệp quốc phòng của Việt Nam...

Chương trình tên lửa chống hạm dự kiến cho phép Việt Nam tự sản xuất biến thể tên lửa Kh-35 Uran - một hệ thống vũ khí mà đang được các tàu tên lửa hiện nay của Việt Nam trang bị.

Thỏa thuận UAV giữa công ty Irkut của Nga với Hiệp hội Hàng không Việt Nam để phát triển một UAV mini mới, sẽ được quân đội Việt Nam sử dụng cho các mục đích giám sát.

Tuy nhiên, do Việt Nam đang nhận được sự quan tâm của nhiều đối tác quốc tế nên Nga sẽ chắc chắn sẽ phải chia sẻ một số thị phần cung cấp vũ khí của họ.

Trong tháng 1-2012, Singapore đã đồng ý theo đuổi hợp tác công nghiệp quốc phòng với Hà Nội.

Ngay sau đó, tháng 2-2012, Công ty quốc phòng Rafael của Isreal tiết lộ rằng, đang nhắm tới Việt Nam như một khách hàng tiềm năng cho các sản phẩm máy bay không người lái.

Cũng trong tháng 2-2012, Australia đã khai mạc một cuộc đối thoại chiến lược với Chính phủ Việt Nam. Một đoàn đại biểu cấp cao của Mỹ, do thượng nghị sĩ Joseph Lieberman và John McCain cũng đã đến Việt Nam trong đầu năm 2012 để tăng cường mối quan hệ gần gũi hơn.

Tuy nhiên, các nguồn lực của Việt Nam còn tương đối khiêm tốn, theo chuẩn ngân sách quốc phòng ở khu vực Đông Nam Á. Dù vậy, đây cũng là cơ hội cho các công ty quốc phòng nước ngoài có thể chứng tỏ mình ở Việt Nam. Việc sẵn sàng chuyển giao bí quyết công nghệ cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam có thể sẽ là chìa khóa để đảm bảo tiếp cận được thị trường tiềm năng này.

Theo Đất Việt

Trung Quốc và chiến lược "lãnh địa hóa" Biển Đông

30/10/2012- Nhân cuộc hội thảo về Biển Đông do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp IRIS phối hợp với Quỹ Gabriel Péri đồng tổ chức ngày 16/10/2012, Tướng Daniel Schaeffer, một chuyên gia Pháp đã phân tích mưu đồ của Trung Quốc, đang tìm cách "lãnh địa hóa" - sanctuariser - hay độc chiếm Biển Đông. Trả lời RFI, Tướng Schaeffer cho rằng Việt Nam cần phải quốc tế hóa mạnh mẽ hơn hồ sơ này để đối phó với chiến lược của Trung Quốc.


Tướng Daniel Schaeffer tại Hội thảo về Biển Đông ở Paris ngày 16/10/2012. Trọng Nghĩa/RFI

Nghe:
Server: http://telechargement.rfi.fr.edgesuite.net

Ngày 16/10/2012, một cuộc hội thảo khoa học về tình hình Biển Đông đã mở ra tại Paris với chủ đề "Biển Đông phải chăng là một không gian khủng hoảng mới ? – Mer de Chine méridionale : nouvel espace de crise ?". Do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp IRIS phối hợp với Quỹ Gabriel Péri đồng tổ chức, cuộc hội thảo đã tập hợp được nhiều chuyên gia tên tuổi ở Pháp và châu Âu, cũng nhu thu hút đông đảo những người quan tâm đến dự thính và thảo luận.

Các bài thuyết trình rất đa dạng, đề cập đến các vấn đề pháp lý, chính trị, ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là quân sự, liên quan đến tình hình căng thẳng hiện nay do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các láng giềng, đặc biệt là Việt Nam. Trong số các diễn giả, có ông Daniel Schaeffer, một viên tướng người Pháp đã về hưu, từng là tùy viên quân sự tại sứ quán Pháp ở Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc, hiện là chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông và châu Á. Bài thuyết trình của tướng Schaeffer đã nêu bật một chiến lược mà theo ông, Trung Quốc đang áp dụng để gọi là sanctuariser, tạm dịch là lãnh địa hóa Biển Đông, tức là độc chiếm khu vực này bất chấp chủ quyền của các nước khác.

Sau buổi hội thảo, tướng Schaeffer đã đồng ý dành cho RFI một bài phỏng vấn để giải thích rõ hơn về ý muốn chiến lược của Trung Quốc, đã bộc lộ rõ ràng qua việc chính thức tung ra tấm bản đồ 9 đường gián đoạn - bị gọi là đường lưỡi bò – khoanh vùng lãnh thổ của họ hầu như chiếm trọn vùng Biển Đông, để rồi buộc các nước khác chấp nhận, cho dù đòi hỏi của Trung Quốc bị cho là phi lý.

Trước hết, tướng Schaeffer xác định là chính qua việc quan sát các động thái hoàn toàn không có cơ sở pháp lý của Bắc Kinh liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thực thể mà họ gọi là quần đảo Trung Sa mà ông cho rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa toàn bộ Biển Đông.

"Tôi đã bảo vệ quan điểm này từ hơn một năm nay, ngay từ năm ngoái, nhân Hội nghị Quốc tế về Biển Đông lần thứ III do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ở Hà Nội. Tôi đã có quan điểm này sau khi quan sát cách thức Trung Quốc biện minh cho đường 9 đoạn tại Biển Đông, tức là đường trung tuyến giữa phần mà họ cho là lãnh thổ của họ và phần thuộc chủ quyền các nước khác.

Khi xem xét hoạt động của ngành ngoại giao Trung Quốc, và nhất là các hoạt động trong lãnh vực pháp lý liên quan đến vấn đề quyền trên biển, ta thấy rằng Trung Quốc đã vạch ra chung quanh quần đảo Hoàng Sa những đường cơ sở thẳng, cứ như là đây là một quốc gia quần đảo.

Nhưng dựa vào luật biển, thì điều đó hoàn toàn không có bất kỳ một cơ sở pháp lý nào được chấp nhận trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển... Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ nhì liên quan đến Trường Sa.

Khi Trung Quốc phản ứng vào năm ngoái trước công hàm của Philippines gởi đến Liên Hiệp Quốc đề phản đối các đòi hỏi của Trung Quốc liên quan đến đường 9 đoạn, Bắc Kinh đã cho hiểu rõ ý định vạch ra những đường cơ sở thẳng tương tự chung quanh Trường Sa. Tại vì trong công hàm đưa ra để phản bác các đề nghị của Philippines, Trung Quốc cho biết là đối với họ, quần đảo Trường Sa có quyền có lãnh hải, có vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền kinh tế.

Cho nên, khi ta tính đến các lập luận đó, cũng như lập luận về một số bãi đá như James Shoal, hay một mỏm đá khác nằm phía Nam quần đảo Trường Sa - không thuộc quần đảo này nhưng lại ở bên trong đường 9 đoạn - và khi ta nhìn những sự cố liên quan đến bãi Scarborough, thì tất cả những yếu tố đó đều nhằm mục tiêu « vật thể hóa », tức là cụ thể hóa các đòi hỏi căn cứ theo đường 9 đoạn đó

Thêm vào đó, vào hạ tuần tháng Sáu vừa qua (23/06/2012), tập đoàn Dầu khí Hải dương Trung Quốc CNOOC đã kêu gọi các tập đoàn quốc tế đấu thầu để cùng với họ thăm dò, khai thác 9 lô nằm ở ngoài khơi Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế kinh tế của Việt Nam, nhưng lại thuộc một vùng lãnh thổ mà Trung Quốc cho là của họ. Đây là một điều đáng sửng sốt vì 9 lô đó nằm ở ngoài khơi ngang tầm với Đà Nẵng.

Theo tướng Schaeffer, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên cái mà họ gọi là « Trung Sa Quần đảo » còn phi lý hơn nữa.

"Thêm vào đó, nếu đi ngược lên phiá Bắc, ta thấy cái mà Trung Quốc gọi là Trung Sa Quần đảo mà quốc tế quen gọi là bãi Macclesfield. Đây là một bãi ngầm, không bao giờ nổi lên trên mặt nước kể cả khí thủy triều thấp. Dó đó, trong mọi trường hợp, bãi này không có quyền có lãnh hải, và lại càng không có quyền hưởng khu đặc quyền kinh tế. Trung Quốc cũng có đòi hỏi tương tự đối với một bãi ngầm khác là Truro Shoal.

Do việc bãi Truro, cũng như bãi Macclesfield, đều không thể có được một vùng đặc quyền kinh tế hay lãnh hải, cho nên Trung Quốc đã gộp hai thực thể này với bãi ngầm Scarborough nằm về phía Philippines, và gọi tập hợp đó là « quần đảo Trung Sa, một loại quần đảo hoàn toàn tưởng tượng không hơn không kém.

Chung quanh đó hiện giờ họ chưa vẽ đường cơ sở thẳng nào, cũng chưa nói đến khả năng đó, nhưng ta có thể suy đoán về việc đó dựa vào những gì xẩy ra trước đây. Giữa quần đảo Hoàng Sa và cái gọi là Trung Sa rất có thể có một sự liên tục về mặt pháp lý, điều đó sẽ cho phép Trung Quốc vạch một đường cấm bược tàu chiến đi qua khu vực phải dừng lại.

Dù sao đi nữa, Trung Quốc hiện đang áp dụng ở vùng đặc khu kinh tế của họ những quy định dùng cho vùng lãnh hải trên vấn đề quyền qua lại một cách vô hại của tàu chiến, có nghĩa là tức là mỗi khi đi qua vùng lãnh hải của Trung Quốc, tàu chiến các nước khác phải xin phép. Phải nói thêm là không chỉ có Trung Quốc, mà Việt Nam, Indonesia cũng áp dụng quy tắc như vậy.

Vấn đề là Trung Quốc lại muốn áp dụng quy tắc kể trên cho vùng biển bên trong đường 9 đoạn được họ coi là vùng đặc quyền kinh tế. Điều đó có nghĩa là khi muốn thì Trung Quốc có thể cấm tất cả các tàu chiến nước ngoài vượt qua đường lưỡi bò đó.

Cho đến nay, các nhà quan sát đã nói rất nhiều về mục tiêu kinh tế của Trung Quốc trong việc tìm cách độc chiếm Biển Đông, tức là để chiếm đoạt nguồn dầu khí được cho là dồi dào trong khu vực. Tuy nhiên, như tướng Schaeffer đã phân tích ở trên, vấn đề quân sự là một nhân tố tối quan trọng. Và việc lãnh địa hóa Biển Đông sẽ cho phép Bắc Kinh triển khai hạm đội tàu ngầm của họ một cách an toàn hơn, dự phòng khi phải tấn công vào Mỹ. Ông giải thích :

"Khi nhìn trên bản đồ, ta thấy ở Tam Á (phía Nam đảo Hải Nam) có căn cứ hải quân nơi Trung Quốc đặt các tàu ngầm phóng tên lửa của họ

Giữa căn cứ Tam Á này và vùng sâu đầu tiên ở Biển Đông, nơi mà các tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc có thể tuần tra một cách yên ổn, là một khoảng cách dài 430 cây số. Bất kỳ một phi cơ trinh sát nào cũng có thể phát hiện ra tầu ngầm Trung Quốc khi các con tàu này rời cảng và đến nơi tuần tra hay đi xa hơn nữa, ra Thái Binh Dương, lúc các con tàu này đi qua eo biển giữa đảo Luzon của Philippines và vùng phía Nam Đài Loan.

Hơn nữa tàu ngầm loại Tấn (Jin), tức là tàu nguyên tứ phóng tên lửa thế hệ hai hiện nay của Trung Quốc lại rất ồn, do đó rất dễ phát hiện. Cho nên cũng dễ hiểu lý do tại sao Trung Quốc muốn biến cả vùng này thành một lãnh địa của riêng họ.

Ngoài ra, dù muốn hay không, dù có nêu rõ hay không, mục tiêu của Trung Quốc không phải tấn công Mỹ mà là tự bảo vệ mình trước Mỹ, mà muốn tự bảo vệ đối với Mỹ, thì phải làm sao để có thể đưa tàu ngầm của họ đến được nơi mà mục tiêu Mỹ nằm trong tầm bắn của tên lửa phóng đi từ tầu ngầm của họ. Hiện nay, hoả tiễn Cự Lãng (Julang) của Trung Quốc chỉ có tấm bắn 8000 cây số, chưa có khả năng bắn đến Mỹ từ Biển Đông…

Nhìn chung, đó là lý do vì sao Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông, Trung Quốc cũng không thể chuyển dịch căn cứ tàu ngầm lên phía Bắc, vì Biển Hoa Đông có một thềm lục địa chạy dài đến tận hố Okinawa, không xa bờ biển Nhật Bản lắm, do dó tầu ngầm Trung Quốc khó có thể che giấu hành tung.

Tóm lại nơi kín đáo nhất, hay ít lộ liễu nhất, đối với tàu ngầm Trung Quốc chính là ở phiá Nam, nơi mà họ đang đặt căn cứ Tam Á.

Đấy là tất cả những lý do khiến tôi cho là Trung Quốc muốn lãnh địa hóa, tức là độc chiếm vùng Biển Đông.

Theo tướng Schaeffer, ông không phải là chuyên gia duy nhất nghĩ rằng Trung Quốc muốn lãnh địa hóa vùng Biển Đông. Hiện nay có nhà phân tích đã so sánh chiến lược Trung Quốc đang thực hiện ở Biển Đông với chủ trương Liên Xô trước đây, thiết lập “tiền đồn” tại vùng biển Okhostsk và Barents; người khác thì nói là Trung Quốc đang thực hiện học thuyết Monroe theo kiểu Trung Quốc.

Câu hỏi đặt ra là Việt Nam phải làm gì trước chiến lược đó của Trung Quốc, nhất là khi Việt Nam đang ở trên tuyến đầu. Theo tướng Schaeffer, trong lãnh vực chống lại đường lưỡi bò của Trung Quốc, Việt Nam không lẻ loi, và cần phải vận động, từ khối ASEAN cho đến các nước khác

"Theo tôi thì trước tiên hết Việt Nam không đơn độc. Giờ này thì cả Việt Nam lẫn Philippines đang ở trên tuyến đầu, sắp tới đây tôi cho rằng sẽ đến lượt Indonesia và Malaysia. Vấn đề theo tôi trước hết là giữa các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á cần phải có một sự đoàn kết, phải thu hút sự chú ý của quốc tế trên thực tế là các đòi hỏi của Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp chút nào với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Cần phải thu hút sự chú ý không chỉ của Hoa Kỳ - nhưng Hoa Kỳ dư biết chuyện này rồi – mà cả của các nước khác trong vùng như Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Liên Hiệp Châu Âu, thậm chí cả các nước châu Mỹ La tinh nữa vì lẽ Biển Đông là một vùng có rất nhiều tuyến hàng hải cực kỳ quan trọng đi qua, và nếu bị Trung Quốc ngăn chặn thì rất phiền.

Dĩ nhiên là Trung Quốc lúc nào cũng thề thốt là họ sẽ không bao giờ ngăn cấm lưu thông hàng hải vân…vân, nhưng mà khi một nước nào có quyền thống trị trên một khu vực, thì ngay cả khi có những lời hứa ngon ngọt, một ngày nào đó mà họ không thích nữa thì họ hoàn toàn có thể cấm tàu bè nước khác qua lại.

Bản thân tôi, tôi không bao giờ tin tưởng vào các cam kết đó của Trung Quốc, cho dù suy cho cùng họ không có lợi lộc gì về mặt kinh tế khi cấm lưu thông hàng hải trên Biển Đông, nhưng điều đó không cấm cản ta đưa ra những giả thuyết, và trong một số trường hợp, giả thuyết về tình huống tệ hại nhất…

Tóm lại, cộng đồng quốc tế cần được hiểu là một ngày nào đó, nếu xảy ra sự cố trong vùng đó, thì không chỉ các nước trong vùng gặp vấn đề, mà tất cả các nước có giao thương với khu vực sẽ bị khó khăn.

Do đó cần phải thuyết phục Trung Quốc cho bằng được là họ phải chấp nhận thương thảo vấn đề chủ quyền trên Biển Đông trên cơ sở Luật biển quốc tế. Nếu cần thì phải đưa ra trước Tòa án Công lý Quốc tế, cho dù phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị thủ tục hồ sơ – một số người đã nêu ra vấn đề này, nhưng theo tôi thì tranh chấp Biển Đông đã kéo dài cả 60 năm nay rồi, cho nên năm, mười năm chẳng thấm vào đâu…

Theo tướng Schaeffer, Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực quốc tế hóa vấn đề. Cho đến nay, Bắc Kinh luôn chống lại điều này vì biết rõ rằng mình bị đuối lý trong lãnh vực pháp lý. Trong những ngày qua, học giả Trung Quốc và Đài Loan loan báo ý định hợp lực với nhau để nghiên cứu cơ sở pháp lý của tấm bản đồ lưỡi bò. Trả lời câu hỏi của RFI về điểm này, tướng Schaeffer không hề ngạc nhiên vì theo ông, trên hồ sơ Biển Đông, Trung Quốc và Đài Loan cùng chung một chiến tuyến :

"Rõ ràng là khi bị tấn công trên vấn đề pháp lý của đường 9 đoạn thì họ phải tìm mọi cách để biện minh. Ở đây tôi rất tâm đắc với câu hỏi của ông vì cho đến nay, khi nói đến tranh chấp Biển Đông, báo chí quốc tế thường liệt kê Đài Loan và các nước Đông Nam Á trong phe những nước chống lại đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc.

Thế nhưng, trong trường hợp Biển Đông, Đài Loan hoàn toàn không đứng về phía các nước Đông Nam Á mà là về phía Trung Quốc, Do đó, trong vấn đề này, phải nói rõ là Đài Loan và Trung Quốc cùng đứng chung chiến tuyến trong cuộc chiến bảo vệ đường 9 điểm !

Theo RFI

'Quảng bá sử liệu chủ quyền là cách đấu tranh mạnh nhất'

30/10/2012- Theo tiến sĩ Nguyễn Nhã, không quốc gia nào có những bằng chứng về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa mạnh mẽ như Việt Nam. Việc quảng bá các sử liệu này là cách đấu tranh mạnh nhất của nước ta.

Ngày 30/10, trong hội thảo "Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý hiếm và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, hải đảo của Việt Nam", tiến sĩ Vũ Thị Minh Hương, Cục trưởng Văn thư lưu trữ Nhà nước cho biết, vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông là một điểm nóng chính trị của khu vực hiện nay. Việc đưa ra các tài liệu lưu trữ là bằng chứng xác thực, có tính pháp lý khẳng định chủ quyền của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. "Nhiệm vụ của các cơ quan lưu trữ là phải tích cực sưu tầm, thu thập và phát huy giá trị nguồn sử liệu này", bà Hương nói.


Bản đồ Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ của Trung Quốc không có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do tiến sĩ Mai Ngọc Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu thư viện của Viện Hán Nôm trao tặng cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: Bảo tàng lịch sử.

Phát biểu tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Nhã (nhà sử học có công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa) nhận định, không có một quốc gia nào đang tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa mà có nhiều bằng chứng, tài liệu cấp nhà nước từ trước năm 1909 (bắt đầu có tranh chấp chủ quyền) như Việt Nam. "Việc quảng bá, công bố những sử liệu về Hoàng Sa và Trường Sa là cách đấu tranh mạnh nhất của chúng ta trong việc khẳng định chủ quyền", Tiến sĩ Nguyễn Nhã nhấn mạnh.

Theo ông Nhã, chúng ta đang có những tài liệu, chứng cứ lịch sử mà các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha... vẫn còn lưu giữ chứng tỏ Trung Quốc đã không thừa nhận chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là sự kiện một chiếc tàu Nhật Bản bị đắm trên vùng biển Paracel (Hoàng Sa) năm 1898 đã yêu cầu công ty bảo hiểm của Trung Quốc phải bồi thường, song chính quyền Trung Quốc cho rằng quần đảo này không thuộc chủ quyền của mình nên không chấp nhận bồi thường.

Nhà sử học cũng cho rằng, trong việc đấu tranh về mặt pháp lý quốc tế liên quan đến sự chiếm hữu thật sự của Việt Nam tại Hoàng Sa, thì châu bản của vua Minh Mạng năm 1836 (về sự thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này) là quan trọng nhất. Bởi trong phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (tập châu bản Minh Mạng 55, trang 336) ghi lời châu phê của Vua Minh Mạng "Mỗi thuyền viễn thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ 'Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc', cắm cột mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu".

Ngoài ra, Tiến sĩ Nhã cũng dẫn chứng về các châu phê khác của vua thời điểm đó như "thuyền đi đâu, phải cắm cột mốc đến đó để lưu dấu" hay phúc tấu còn ghi "chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật được phái từ Thuận An vào Quảng Ngãi để đi công tác Hoàng Sa"; nhiều châu bản khác của năm 1845, 1847 thời vua Thiệu Trị...

"Đây là những văn bản cấp nhà nước mà không có quốc gia nào có được trước năm 1909. Chúng ta phải dùng những sử liệu này để đấu tranh, bảo vệ chủ quyền", nhà sử học nhấn mạnh.


Tiến sĩ Nguyễn Nhã trao đổi cũng Tiến sĩ Vũ Thị Minh Hương, Cục trưởng Văn thư Lưu trữ Nhà nước (Bộ Nội vụ) sáng 30/10 tại TP HCM. Ảnh: Hữu Công.

Để thực sự phát huy giá trị của những nguồn sử liệu quý mà cơ quan nhà nước đang quản lý, theo ông Nhã, cần thay đổi tư duy hài hòa giữa trách nhiệm lưu trữ và trách nhiệm khai thác tài liệu lưu trữ cho nhà nghiên cứu. "Hiện nay người phụ trách lưu trữ văn khố thường chỉ lo trách nhiệm lưu trữ mà không quan tâm đến trách nhiệm cho các người nghiên cứu khai thác tài liệu quý. Nếu tài liệu lưu trữ được tốt mà không phục vụ cho sự khai thác thì lưu trữ để làm gì", nhà sử học đặt vấn đề.

Đáp lại những ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Nhã, Cục trưởng Văn thư Lưu trữ Nhà nước nhìn nhận việc những người làm công tác lưu trữ chỉ quan tâm đến tài liệu, mục lục và danh sách tài liệu. Trong khi có những điều chỉ các nhà nghiên cứu chuyên sâu, gợi mở thì người quản lý mới biết được những văn bản, những cột mốc nào quan trọng. "Hy vọng hội thảo này là bước khởi đầu cho mối quan hệ giữa các nhà nghiên cứu và những người làm công tác lưu trữ để sự hợp tác và hỗ trợ giữa 2 bên ngày càng thắt chặt hơn", bà Hương chia sẻ.

Hữu Công/ Vnexpress

Lý giải việc Su-30 Trung Quốc được sơn màu 'lạ'


31/10/2012- Trong một số cuộc tập trận không quân gần đây, Không quân Trung Quốc đã sử dụng các máy bay chiến đấu sơn màu camo như Su-30 của nước ngoài.

->> Máy bay chiến đấu TQ giả dạng phi cơ VN để làm gì?

(ĐVO) Ít nhất một chiến đấu cơ Su-30 trong vai trò phi đội không kích xâm nhập của Không quân Trung Quốc đã được sơn màu giống màu sơn của các chiến đấu cơ Su-30MK2 mới mà nước khác (*) đang sử dụng.

Theo Strategypage, điều này có thể nói lên rằng, ít nhiều các phi công Trung Quốc đang được đào tạo để nhanh chóng nhận dạng và đối phó với những chiếc Su-30 của nước đó.

Không quân Trung Quốc hiện có một đơn vị được thành lập để đóng vai trò mô tả về các máy bay đặc biệt của nước ngoài, gồm các máy bay chiến đấu chiến thuật của Không quân Mỹ và Không quân Ấn Độ. Như vậy, họ (Trung Quốc) đang có khoảng 3 phi đội quân xanh.

Một đơn vị được trang bị các chiến đấu cơ Su-30, đại diện cho các tiêm kích F-15 của Mỹ hoặc Su-30 của Ấn Độ và các nước khác. Một phi đội khác trang bị các máy bay J-10A, tương tự như các máy bay F-16 của Không quân Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan... Phi đội tiêm kích thứ ba trang bị các máy bay J-7 (sao chép từ MiG-21), đóng vai là các tiêm kích MiG-21.


Hai chiến đấu cơ Su-30MKK của Không quân Trung Quốc được sơn màu "lạ"trong đợt tập trận vừa qua.

Xuất phát từ chương trình Top Gun của Mỹ

Việc sử dụng máy bay trong lực lượng làm "kẻ thù huấn luyện giả định" đã được triển khai từ năm 1969. Khi đó, một trường đạo tạo phi công chiến đấu với mô hình như vậy đã được Hải quân Mỹ thành lập với tên gọi Top Gun, để có thể huấn luyện chống lại các phi công Việt Nam đang sử dụng các máy bay chiến đấu Liên Xô với hiệu suất chiến đấu vượt trội.

Sự khác biệt trong hoạt động của Top Gun là nhấn mạnh việc đào tạo phi công làm thế nào để có thể đánh bại được những máy bay tiềm năng của kẻ địch. Cách huấn luyện này được gọi là "huấn luyện không đồng dạng".

Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, các phi công Mỹ từng được huấn luyện để chống lại các đồng đội của họ, tất cả đều bay trên máy bay Mỹ và sử dụng chiến thuật của Mỹ.

Trong đầu những năm 1980, Nga đã thành lập một trường học đào tạo phi công chiến đấu như vậy, sau đó, Trung Quốc cũng đi theo mô hình này vào năm 1987.


Một hình ảnh khác về loại Su-30MKK của Không quân Trung Quốc với màu sơn camo chưa từng xuất hiện truớc đó.

Trong 4 thập kỷ qua, đã có hai chương trình huấn luyện Không quân Mỹ được phát triển khác nhau, họ đã thay đổi hoàn toàn khái niệm "đào tạo không đồng dạng" (dissimilar training).

Hải quân Mỹ giữ Top Gun như một chương trình để trau dồi kỹ năng chiến đấu cho phi công của họ, còn Không quân Mỹ đi theo chương trình Red Flag phức tạp hơn, trong đó có sự tham gia của nhiều loại máy bay với nhiều nhiệm vụ chiến đấu khác nhau (đặc biệt là tác chiến điện tử).

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Không quân Mỹ nhận thấy không có đối thủ nào có thể trở thành kẻ thù tiềm năng của họ và đã chuẩn bị cho các phi công của họ ở tất cả các thể loại huấn luyện. Nói cách khác, huấn luyện không đồng dạng của các phi công lái chiến đấu cơ Mỹ đã không còn quan trọng như trước.

Thực tế, Không quân Mỹ nghĩ rằng kỹ năng bay của các phi công Liên Xô đã bị giảm sút trong những năm 1980 do vấn đề kinh tế ở Liên Xô, khiến họ phải cắt giảm thời gian bay huấn luyện. Ngược lại, thời gian bay của các phi công Mỹ đã liên tục tăng lên trong khoảng thời gian đó. Hơn nữa, các hệ thống mô phỏng bay cũng đã được Mỹ phát triển tốt hơn, các phi công Mỹ nhận ra rằng, ngay cả những trò chơi chiến đấu trên mô phỏng cũng mang lại cho họ nhiều giá trị đào tạo.

Do vậy, cuối những năm 1990, ngân sách cho hai chương trình đào tạo Top Gun và Red Flag đã bị cắt giảm. Tuy nhiên, hai chương tình này vẫn còn tồn tại.

Hiện nay Trung Quốc tiếp tục cải thiện khả năng chiến đấu trên không của họ bằng các mô hình đào tạo tương tư như Top Gun và tăng thời gian bay cho phi công của họ. Về chính trị, họ luôn gây ra những căng thẳng với Mỹ và điều này có thể sẽ làm chương trình Top Gun của Không quân Mỹ được tiếp tục tăng cường.

Do nỗ lực mới của Trung Quốc về "đào tạo không đồng dạng", các trường đào tạo Top Gun và Red Flag của Mỹ đang được khôi phục trở lại thời kỳ phát triển mạnh mẽ.

Động thái này của Trung Quốc chắc chắn là một điều mang đầy ý nghĩa, nó cho thấy mức độ nghiêm trọng trong việc chuẩn bị cho các phi công chiến đấu của họ biết cách chiến đấu thế nào để đánh bại các phi công Đài Loan và phi công Mỹ.


Có thể nhận thấy sự giống nhau trong màu sơn của chiếc F-15 này với màu sơn của chiếc Su-30MKK của Trung Quốc.

Đào tạo không đồng dạng được thực hiện ra sao?

Hiện nay, Hải quân Mỹ tân trang lại các máy bay chiến đấu F-16 dư thừa từ để giúp các phi công F-16 của họ có thể giả dạng huấn luyện với các phi công F-18 biết cách làm thế nào để đánh bại các phi công từ kẻ thù tiềm năng Trung Quốc.

Sở dĩ F-16 được họ lựa chọn do các máy bay này có những đặc tính thao diễn tương tự như những chiến đấu cơ của kẻ thù tiền năng.

Ngoài ra, cả Nga và Trung Quốc cũng đều sử dụng F-16 làm đối tượng chiến đấu phổ biến nhất cho những chiến đấu cơ mới nhất của họ như MiG-29 (Nga) và J-10 (Trung Quốc).

Cuối những năm 1980, Hải quân Mỹ đã mua 26 mô hình đặc biệt các máy bay F-16N (Navy). Trong những năm 1990, họ đã cho nghỉ hưu toàn bộ số máy bay này do phần khung thân kim loại của chúng bị hơi nước biển ăn mòn và phải chờ đợi thêm gần một thập kỷ để có thêm 16 máy bay như vậy.

Hải quân Mỹ cũng sử dụng cả máy bay F-5 để mô phỏng các máy bay chiến đấu hiệu suất thấp hơn của kẻ thù như MiG-21. Họ đã mua và sửa đổi lại 44 chiến đấu cơ F-5E từ Thụy Sĩ. Cấu hình chiến đấu cơ F-5 sửa đổi được trang bị 2 pháo 20mm và mang được 3 tấn bom và tên lửa và đạt được hiệu suất tốt hơn các máy bay tương tự của Nga và Trung Quốc.

(*): Tức Việt Nam

Theo Đất Việt

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Hải quân Mỹ dùng vũ khí gì chống ngư lôi?

31/10/2012- Khi mục tiêu đã được xác nhận, SeaFox sẽ di chuyển ra xa và dùng tia plasma nhiệt độ cao của mình để phá hủy quả ngư lôi.

Sau cuộc tập trận đối phó với ngư lôi trên Vùng Vịnh gần đây, Mỹ đã nhận thấy các tàu và trực thăng phá ngư lôi (MH-53) của mình đã không đem lại thành công như mong đợi, trang strategypage dẫn nguồn tin quân sự từ Washington.

Ngược lại, các tàu ngầm phá ngư lôi không người lái SeaFox lại chứng tỏ được thế mạnh của mình. Hiện đã có 10 quốc gia sở hữu SeaFox, trong đó Mỹ là người dùng mới nhất sau đơn đặt hàng kí vội với Đức tháng 5 vừa qua.


Ngư lôi bị phá trong cuộc tập trận ở Vùng Vịnh hồi tháng 9 vừa qua

Các tàu ngầm điều khiển từ xa này đã đảm nhận được nhiệm vụ của cả tàu và trực thăng phá ngư lôi thông thường.

Điều này đã khiến Mỹ nghĩ đến việc tập trung đào tạo đội ngũ điều khiển cũng như nghiên cứu, nâng cấp các thiết bị điện tử trên SeaFox.

Sau hợp đồng đầu năm, Mỹ đã nhận được vài chục chiếc SeaFox, kịp gửi đến cuộc tập trận phá ngư lôi tại Vùng Vịnh tháng 9 vừa qua.

Trong đó, các tàu ngầm SeaFox được trang bị cho một tàu chiến lớp Avenger của Hải quân Mỹ với nhiệm vụ rà phá các loại ngư lôi bề mặt và ngư lôi đáy biển.

Mỗi chiếc SeaFox chỉ dài khoảng 1.2 m và có khối lượng 45kg, chúng có thể di chuyển với tốc độ 6 hải lý/h dưới độ sâu 90m. Nó có một sợi cáp quang nối với bộ phận điều khiển, khi di chuyển dưới nước SeaFox có cảm biến nhận diện ngư lôi.


Tàu ngầm phá ngư lôi không người lái SeaFox

Sau khi phát hiện mục tiêu, camera sẽ được bật lên để người điều khiển xác định có phải ngư lôi hay không. Tiếp theo, khi mục tiêu đã được xác nhận, SeaFox sẽ di chuyển ra xa và dùng tia plasma nhiệt độ cao của mình để phá hủy quả ngư lôi.

Mỗi tàu ngầm SeaFox có khả năng hoạt động 100 phút dưới nước và lặn sâu tối đa 300m. Hiện nay, những chuyên gia khai thác của Hải quân Mỹ đã nghiên cứu, chế tạo những bản sao của SeaFox với các thiết bị tiên tiến để nâng cao hiệu quả sử dụng.

Tùng Đinh (VTC)

Máy bay chiến đấu TQ giả dạng phi cơ VN để làm gì?

30/10/2012- Tin tức chiều thứ sáu 26/20 cho hay là ít nhất một chiếc chiến đấu cơ Su-30 của phi đội “Agressor Squadron” của Không Lực Trung Quốc đã được sơn y hệt như máy bay của Không Lực Việt Nam (vốn cũng sử dụng chiến đấu cơ Su-30+ do Nga chế tạo.

Trong vài năm qua, tình hình căng thẳng giữa hai quốc gia không ngừng gia tăng và chuyện máy bay Su-30 của TQ sơn màu y hệt như VN hoặc là một cảnh báo cho VN, hoặc vì nhiều phi công TQ ngày nay đang được huấn luyện chiến đấu để sau này đối đầu với phi cơ Su-30 của VN.


Một chiến đấu cơ Su-30

Không quân TQ có một đơn vị huấn luyện đang cố gắng miêu tả gần dúng nhất các phi cơ của kẻ thù, đặc biệt máy bay của Hoa Kỳ và Ấn Độ, để các phi công TQ tập luyện “nhận diện” ra kè thù nếu có chiến tranh thật.

Trong 3 đội bay “Agressor Sqadron” có 3 chiếc sơn màu xanh (kẻ thù) và 3 chiếc sơn màu đỏ (phe ta). Một chiếc Su-30 “giả” làm chiến đấu cơ F-15 của Mỹ hay loại Su-30 của không lực Ân Độ và VN.

Hai chiếc còn lại “đại diện” cho kiểu máy bay J-10 A, từa tựa như kiểu chiến đấu cơ F-16 của Mỹ và chiếc kia là J-7s (phỏng theo mẫu Mig-21) giả làm máy bay chiến đấu Mig-21 mà không lực Ấn Độ vẫn còn sử dụng.

Kiểu huấn luyện như thế phát xuất từ chiến tranh VN, vì các phi công Mỹ lúc đó rất khó khăn vất vả khi phải đối đầu với các kiểu phi cơ do Nga sản xuất. Sau đó chương trình “Top Gun” của Không Lực Hoa Kỳ, sử dụng chính máy bay của mình huấn luyện tác chiến, đã tỏ ra thành công.

Năm 1980, không quân Nga bắt đầu bắt chước trường phái “Top Gun” của Mỹ để tập luyện và đến năm 1987 thì Không Quân TQ bắt chước theo.

Ngày nay Hoa Kỳ tin là TQ gia tăng nỗ lực huấn luyện phi công chiến đấu của họ theo kiểu “Top Gun” để chuẩn bị các trận không chiến thật sự sau này. Máy bay TQ giả dạng máy bay VN có lẽ không nằm ngoài mục tiêu đó.

Xin giới thiệu đến bạn đọc video “máy bay chiến đấu Sukhoi Su-30″:

Trường Giang (Stategy Page)


Nguyentandung.org




Công bố nhiều tài liệu quý hiếm về Hoàng Sa, Trường Sa

31/10/2012- Những châu bản triều Nguyễn khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, các nghị định, quyết định thiết lập chế độ hành chính ở hai quần đảo này… được công bố tại hội thảo khoa học về biển đảo Việt Nam.

Ngày 30/10, Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước (Bộ Nội vụ) tổ chức tại TP.HCM hội thảo “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, hải đảo của Việt Nam”.


Cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước Vũ Thị Minh Hương trao đổi với chuyên gia nghiên cứu Biển Đông Nguyễn Nhã. Ảnh: Tá Lâm

Bà Nguyễn Hồng Nhung - Trung tâm Lưu trữ quốc gia I cho biết, có 772 tập châu bản triều Nguyễn đang được bảo quản tại trung tâm, trong đó có một số châu bản về Hoàng Sa và Trường Sa. Cụ thể, những châu bản này đề cập đến việc nhà Nguyễn cử người đi khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ ở Hoàng Sa. “Những châu bản có tại Trung tâm khẳng định rõ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này thông qua việc nhà Nguyễn cứu thuyền buôn nước ngoài gặp nạn ở Hoàng Sa và Trường Sa”, bà Nhung cho biết.

Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I còn có nhiều tài liệu gốc quý hiếm bằng tiếng Pháp quy định về việc đi lại qua biên giới Trung Quốc - Việt Nam…

TS Nguyễn Xuân Hoài - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II cho biết, ở đây đang lưu trữ các tài liệu bao gồm: các nghị định, quyết định thiết lập chế độ hành chính ở các địa phương biên giới và các hải đảo như Hoàng Sa và Trường Sa…Tài liệu về việc phân định ranh giới, giải quyết tranh chấp lãnh thổ và thềm lục địa với các nước trong khu vực, các báo cáo và tường trình về các vụ xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải trái phép…

“Điển hình như năm 1932, nghị định số 156-QC của Chính phủ bảo hộ Pháp thiết lập quần đảo Hoàng Sa thành một quận hành chính thuộc tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên - Huế). Nghị định này sau đó được xác nhận bởi Dụ số 10 của Hoàng đế Bảo Đại ngày 8/3/1938”, ông Hoài nói.

Ngoài ra, ông Hoài cũng cho biết thêm nhiều tài liệu quý về tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tài liệu này cho thấy, việc tranh chấp chủ quyền bắt đầu từ sau năm 1945, tiếp đó là việc chính quyền Sài Gòn tập hợp các tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

“Đây là những tài liệu có giá trị đặc biệt, là những minh chứng hùng hồn, có tính lịch sử và pháp lý liên quan đến vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của dân tộc. Song, những tài liệu này vẫn còn nằm trong kho lưu trữ, chưa được khai thác.Việc công bố, giới thiệu những tài liệu này sẽ phát huy tối đa giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, TS Hoài nói.

TS Nguyễn Nhã, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông nói: “Hội thảo này là bước ngoặt để các nhà nghiên cứu tiếp cận với tài liệu quý hiếm về chủ quyền biển đảo Việt Nam”.

Ông đề nghị các cơ quan lưu trữ cần thay đổi tư duy, rộng cửa để các nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp cận, đồng thời công bố công khai những tài liệu quý hiếm về biển đảo Việt Nam, nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước Vũ Thị Minh Hương khẳng định, thời gian tới, các cơ quan lưu trữ sẽ mở rộng cửa để các nhà nghiên cứu, các học giả, nhà khoa học… tiếp cận nguồn tài liệu này, đồng thời nhanh chóng tìm kiếm các tư liệu quý hiếm về chủ quyền biển đảo Việt Nam từ nhiều nguồn khác trong và ngoài nước.

“Nhiệm vụ được đặt ra đối với các cơ quan lưu trữ nói chung và Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước nói riêng là phải khẩn trương tích cực sưu tầm, sưu tập và phát huy giá trị nguồn sử liệu về biên giới, chủ quyền hải đảo, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo Việt Nam”.

Tá Lâm/ Vietnamnet


Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Bài toán nguy hiểm của Trung Quốc trong tranh chấp biển đảo

29/10/2012- Theo giáo sư Mỹ Taylor Fravel, có nguy cơ thực sự về khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực chống Nhật Bản, liên quan đến tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.


Đụng độ giữa tàu công vụ hai nước có thể dẫn đến xung đột bùng phát.
Ảnh telegraph.co.uk

Đối đầu Trung-Nhật về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đã bước vào tháng thứ hai. Đây là một cuộc đối đầu nguy hiểm hơn người ta tưởng. Nếu xét đến hành vi của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trong quá khứ, cuộc đối đầu liên quan đến Senkaku/Điếu Ngư có nguy cơ dễ bùng nổ.

Kể từ năm 1949, Trung Quốc đã can dự vào 23 cuộc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng: trên đất liền và trên biển. Trong số đó, 17 cuộc tranh chấp đã được giải quyết, thông qua các hiệp định thỏa hiệp. Tuy nhiên, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trong 1/6 tổng số các cuộc tranh chấp lãnh thổ này. Và đó là những trường hợp tương đối giống với cuộc đối đầu về Senkaku/Điếu Ngư.

Trung Quốc thường sử dụng vũ lực trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng có sức mạnh quân sự. Đó là các cuộc chiến hoặc đụng độ lớn với Ấn Độ, Nga và Việt Nam cũng như các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có khả năng ngăn chặn lớn nhất đối với tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Trong các cuộc tranh chấp với các quốc gia yếu hơn như Mông Cổ hay Nepal, Bắc Kinh thường tránh sử dụng vũ lực vì nước này có thể đàm phán trên thế mạnh. Hiện nay, Nhật Bản là nước láng giềng trên biển mạnh nhất của Trung Quốc, với lực lượng hải quân hiện đại và lực lượng tuần duyên hùng hậu.

Trung Quốc cũng thiên về sử dụng vũ lực hơn trong các vụ tranh chấp biển đảo như quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Trên biên giới đất liền, Trung Quốc chỉ sử dụng vũ lực trong gần 1/5 của 16 cuộc tranh chấp. Trái lại, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trong một nửa tổng số 4 vụ tranh chấp biển đảo. Các hòn đảo được coi là có giá trị nhiều hơn về chiến lược, quân sự và kinh tế bởi vì chúng có ảnh hưởng lớn an ninh hàng hải và có thể liên quan đến các nguồn tài nguyên lớn như hải sản, dầu khí.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng chủ yếu được sử dụng vũ lực để củng cố vị thế tranh chấp ở những nơi mà nước này không sở hữu hoặc chiếm được rất ít những vùng lãnh thổ mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Năm 1988, Trung Quốc đã đụng độ với Việt Nam, khi nước này đánh chiếm sáu rạn san hô trong quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong nhiều thập kỷ, nhưng không hề kiểm soát bất kỳ hòn đảo hoặc bãi đá ngầm nào trước vụ đánh chiếm năm 1988.

Trong trường hợp Trung Quốc đã sở hữu một số vùng lãnh thổ đang tranh chấp, chẳng hạn như tranh chấp biên giới với Kazakhstan, Trung Quốc có vị thế mặc cả mạnh mẽ và ít lý do để sử dụng vũ lực. Nhưng ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc không nắm giữ bất kỳ hòn đảo nào của quần đảo Senkaku hiện dưới sự kiểm soát của Nhật Bản.

Quan trọng nhất, Trung Quốc thường sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ vào những thời kỳ có bất ổn xã hội ở trong nước. Khi đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có một động lực lớn hơn để thiên về giải quyết bằng vũ lực. Họ cho rằng các bên tranh chấp lợi dụng khủng hoảng trong nước của Trung Quốc và phản ứng yếu hoặc kiềm chế có thể làm tăng thái độ bất mãn trong dân chúng.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện thời cảm thấy bất an vì nhiều lý do. Đó là mâu thuẫn về đường lối ở cấp cao nhất, kinh tế đang phát triển chậm lại và Trung Quốc đang ở trong thời kỳ chuyển đổi lãnh đạo đầy nhạy cảm. Những yếu tố này làm tăng giá trị của việc thể hiện lập trường cứng rắn phát đi tín hiệu cho cả phía Nhật Bản lẫn công chúng Trung Quốc. Chúng cũng làm giảm khả năng thỏa hiệp hoặc nhượng bộ từ phía Bắc Kinh.

Trong con mắt người Trung Quốc, những hành động của Nhật Bản liên quan đến Senkaku/Điếu Ngư dường như đang lợi dụng khó khăn của Trung Quốc. Đối đầu Trung-Nhật bắt đầu vào tháng 4/2012, khi Thống đốc Tokyo Shintaro Ishihara thoe chủ nghĩa dân tộc công bố một kế hoạch để mua ba trong số các hòn đảo của quần đảo Senkaku từ tay chủ sở hữu tư nhân người Nhật. Tuyên bố của Thống đốc Ishihara được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Bắc Kinh đã cách chức Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy Trùng Khánh của Bạc Hy Lai trong một vụ bê bối chính trị lớn nhất hơn hai thập kỷ qua.

Trung Quốc đã tỏ ra cứng rắn hơn khi tăng trưởng kinh tế của nước này giảm tốc nhanh hơn nhiều so với dự kiến và khiến cho các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh vô cùng lo lắng. Sau đó, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda lại công bố quyết định “quốc hữu hóa” ba hòn đảo trong quần đảo Senkaku vào đúng vào dịp kỷ niệm sự cố Marco Polo Bridge tháng 7/1939 đánh dấu ngày phát xít Nhật bắt đầu đánh chiếm Trung Quốc. Không những thế, vụ “quốc hữu hóa” ba hòn đảo của quần đảo Senkaku Ngư lại được hoàn tất trong tháng 9/2012, chỉ vài ngày trước thời điểm quân Nhật xâm lược Mãn Châu trong năm 1931.

Các yếu tố gây mất ổn định cuối cùng trong cuộc đối đầu Senkaku/Điếu Ngư là cả hai bên đồng thời tham gia vào các vụ tranh chấp biển đảo khác. Mới đây, Tổng thống Lee Myung-bak đã phá vỡ truyền thống và trở thành nhà lãnh đạo Hàn Quốc đầu tiên đến thăm quần đảo Dokdo (mà Nhật Bản gọi là Takeshima) do nước này chiếm đóng nhưng Nhật Bản lại đòi hỏi chủ quyền. Trong khi đó, Trung Quốc đang tranh chấp với Việt Nam và Philippines ở Biển Đông. Tokyo và Bắc Kinh đều có thể đi đến kết luận rằng bên nào chiếm ưu thế trong cuộc đối đầu Senkaku/Điếu Ngư, bên đó sẽ có cơ hội tốt hơn trong các cuộc tranh chấp khác.

Trung Quốc đã không được sử dụng vũ lực trong tranh chấp lãnh thổ hơn 20 năm và có thể tránh được sự leo thang xung đột liên quan đến quần đảo Senkaku. Tuy nhiên, tình hình hiện nay là vô cùng nguy hiểm. Nếu một sự cố nghiêm trọng xảy ra liên quan đến tàu công vụ của hai nước, một cuộc khủng hoảng thực sự có thể bùng phát với kết cục không thể nào tiên đoán được.

Taylor Fravel là giáo sư khoa học chính trị thỉnh giảng tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông là tác giả của cuốn sách “Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China's Territorial Disputes” (NXB Princeton, 2008).

Bản Tiếng Việt: Báo Đất Việt

Chiến hạm Australia cập cảng Việt Nam


>> Chiến hạm Australia thăm thiện chí TP HCM

29/10/2012- Đón tàu và thủy thủ đoàn có đại diện Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam, Sở Ngoại vụ TPHCM, Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Quân khu 7, Bộ tư lệnh TPHCM, Bộ đội Biên phòng TPHCM và Tổng lãnh sự quán Australia tại TPHCM.

Tại lễ đón, chỉ huy tàu HMAS Sydney, Đại tá hải quân Luke Charles Jones cho biết: Các sĩ quan và thủy thủ của tàu HMAS Sydney rất vui mừng khi đến thăm TPHCM.

Đại tá Hà Xuân Xứ, đại diện của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam, chào đón đoàn và chúc đoàn có chuyến thăm thành công tại Việt Nam

Trong thời gian ở TP HCM, các sĩ quan và thủy thủ tàu HMAS Sydney sẽ đặt hoa tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào xã giao lãnh đạo UBND TPHCM, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và Đại diện Bộ Tư lệnh Hải quân tại phía Nam.

Trong cuộc gặp với Đại diện Bộ Tư lệnh Hải quân tại phía Nam, các sĩ quan và thủy thủ đoàn sẽ tham gia các hoạt động giao lưu thiện chí và thực hiện trao đổi kỹ năng liên quan đến hoạt động của trực thăng trên tàu chiến.

Các thủy thủ tàu HMAS Sydney sẽ tham gia giao hữu thể thao với học viên trường Trung cấp Kỹ thuật Hải quân và giao hữu bóng đá với đội Vietnam Swans tại trường Đại học RMIT, phân hiệu tại TPHCM.



>> 'VN nên kết thân với cường quốc bậc trung'

Thủy thủ đoàn sẽ đón một nhóm học sinh khuyết tật của trường Bình Minh, ngôi trường được Loreto Việt Nam-Australia hỗ trợ, lên thăm tàu. Dịp này, các sĩ quan và thủy thủ Australia cũng sẽ đi tham quan một số địa danh, thắng cảnh tại TPHCM.

Chuyến thăm của tàu hộ vệ tên lửa HMAS Sydney sẽ góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Australia nói chung và hải quân hai nước nói riêng.

Đại tá Không quân Matthew Dudley, Tùy Viên Quốc Phòng Australia Việt Nam cho biết: “Đây là cơ hội tuyệt vời để củng cố hơn nữa mối quan hệ hợp tác quốc phòng Australia-Việt Nam. Mối quan hệ này đã được xây dựng từ năm 1999 và đã được tái khẳng định trong buổi hội đàm giữa Bộ trưởng Quốc phòng hai nước vào tháng 8 năm nay. Từ năm 1999, quân đội Australia đã giúp đào tạo hơn 1.200 quân nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Việt Nam và Australia”.

Dưới đây là một vài hình ảnh lễ đón tàu HMAS Sydney (FFG-03) tại TPHCM:



Sĩ quan và thủy thủ tàu HMAS Sydney được đón tiếp nồng hậu tại cảng TPHCM.


Sĩ quan Hải quân Việt Nam và Australia trao đổi với nhau tại lễ đón.


Khinh hạm HMS Sydney (FFG-03) thuộc lớp tàu Adelaide thiết kế dựa trên lớp Oliver Hazard Perry của Mỹ với một số cải tiến nhỏ. HMS Sydney có lượng giãn nước 4.100 tấn, dài 139m.


Thủy thủ trên tàu HMS Sydney.


HMS Sydney trang bị hệ thống vũ khí hiện đại: tổ hợp tên lửa đối không tầm trung RIM-162 ESSM (chứa trong hệ thống ống phóng thẳng đứng Mk41), tổ hợp tên lửa đối không tầm xa SM-2, tên lửa chống hạm RGM-84, pháo hạm 76mm, tổ hợp pháo phòng không Phlanx, 2 cụm máy phóng ngư lôi cỡ 324mm.

>> Chiến hạm Australia sắp thăm TP HCM (09/10/2011)

>> Chiến hạm Hàn Quốc thăm Việt Nam
>> Tàu đổ bộ Hải quân Singapore thăm Việt Nam
>> Tàu chiến Mỹ thăm Đà Nẵng
>> Điểm lại một số tàu chiến Mỹ từng thăm Việt Nam
Theo báo Quân đội Nhân dân












Dự báo ứng viên mới cho Không quân

29/10/2012- Theo các chuyên gia phương Tây, JAS Gripen, Su-30MK2, Su-34L-159 ALCA là những máy bay được đánh giá là những ứng viên cho viễn cảnh tương lai của Không quân Nhân dân Việt Nam.

Tạp chí hàng không Air Forces Monthly mới đây vừa có một bài viết về sự phát triển và nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của Không quân Nhân dân Việt Nam.

Đất Việt xin trích dẫn lại một phần nội dung của bài viết về Học thuyết hoạt động và Viễn cảnh tương lai của Không quân Việt Nam do các chuyên gia nước ngoài đánh giá.

Học thuyết hành động

Không quân Nhân dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ không phận và các vùng biển lân cận. Trong tình hình chính trị trong khu vực và trên thế giới đang diễn ra phức tạp, những thách thức mà lực lượng này phải đối mặt là đáng kể. Tuy nhiên, sự hạn chế về các nguồn lực tài chính dẫn đến những chi tiêu, mua sắm chiến đấu cơ mới phải được phân phối một cách cẩn thận.

Để đảm bảo được chiến thuật, cách đánh và tính bí mật, những dữ liệu về số lượng và vị trí các phi đội máy bay không bao giờ được công bố, sơn ký hiệu số hiệu của máy bay được thực hiện theo qui định của lực lượng và không mang ký hiệu riêng nào về đơn vị được biên chế. Do vậy, việc sắp xếp, bố trí máy bay sẽ gây ra nhiều khó khăn đối với những kẻ thù tiềm năng trong việc dự đoán sức mạnh thật sự về Không quân Nhân dân Việt Nam.

Mối đe dọa lớn nhất của Việt Nam được xác định từ hướng biển, vì vậy, cả không quân và hải quân đều đang được tích cực mua sắm, trang bị những vũ khí hiện đại.

Kết quả là, Không quân Việt Nam được trang bị những vũ khí để có thể tối ưu, vô hiệu hóa các mối đe dọa từ biển.


Su-30MK2 đang là chiến đấu cơ tiên tiến nhất của Không quân Việt Nam.

Các máy bay ném bom Su-22 đang được sử dụng với số lượng lớn, nhưng được vũ trang vũ khí chủ yếu là loại tên lửa Kh-25 đã có 30 tuổi đời và không thể tạo ra khả năng ngăn ngừa các mối đe dọa một cách hiệu quả.

Việc cần thiết phải có những vũ khí bắn trúng mục tiêu từ khoảng cách xa từ bờ biển dẫn tới việc trang bị những chiến đấu cơ đa năng Su-27 và S-30 hiện đại hơn nhiều lần.

Các chiến đấu cơ Su-27 và Su-30 được trang bị hai loại tên lửa chủ lực để đánh biển là Kh-29 và Kh-31, được xem là vũ khí hiệu quả để tấn công các mục tiêu trên biển từ khoảng cách xa và cân bằng những mối đe dọa từ biển.


Máy bay C-212 tại Trung đoàn 918

Để có thể tăng cường khả năng tuần tra, giám sát từ xa. Trong năm 2008, Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã đặt mua 3 máy bay tuần thám biển CASA C212-400 từ châu Âu.

Cảnh sát biển là một bộ phận tuần tra biên giới, hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật trên vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.

Không quân Nhân dân Việt Nam đang kiểm soát mạng lưới phòng không tích hợp, trong đó bao gồm một vài thê đội được kết nối đường truyền tới hệ thống trao đổi dữ liệu, gồm nhiều radar, trong đó có những dàn radar P-18 được đặt trên khung gầm xe tải Ural.

Các phần tử của hệ thống đều có khả năng cơ động, cho phép mở rộng tầm quan sát trên toàn quốc và có thể phát hiện bất cứ mục tiêu nào xâm phạm.

Trong thời bình, hầu hết các hệ thống radar đều được bố trí ở trong hoặc vùng phụ cận của các căn cứ không quân, căn cứ quân sự và kho chứa. Các hệ thống radar được kết nối tới các tổ hợp tên lửa phòng không, trong đó, tổng số có khoảng 3.200 tên lửa phòng không vác vai Igla-S cùng với hệ thống phòng không tầm xa S-300 PMU-1.

Ngoài ra, lực lượng phòng không Việt Nam còn có hàng trăm khẩu đội pháo phòng không cỡ 23 mm, 37 mm và 57 mm.

Những ứng viên cho tương lai


Chuyên gia phương Tây cho rằng Su-34 sẽ là một lựa chọn phù hợp để thay thế cho các phi đội Su-22 đang lão hóa của Việt Nam.

Theo Air Forces Monthly, tùy thuộc vào kinh phí mua sắm máy bay mới mà Không quân Nhân dân Việt Nam có kế hoạch đầy tham vọng để nâng cấp, bao gồm cả việc triển khai 4 trung đoàn máy bay chiến đấu Sukhoi để tăng cường khả năng tác chiến chống lại các mục tiêu mặt đất, mặt nước.

Với kế hoạch này, Không quân Nhân dân Việt Nam sẽ tăng số lượng máy bay chiến đấu Su-27/30 trang bị lên vài chục chiếc, trở thành xương sống trong lực lượng tấn công và phòng thủ của lực lượng, nhưng cũng có thể, nếu tất cả diễn ra theo đúng kế hoạch, Việt Nam có thể có thêm một sản phẩm khác của dòng máy bay Sukhoi là loại tiêm kích bom Su-34.


Kh-31 Mod2 và Su-30 sẽ là "cặp đôi hoàn hảo" trong các nhiệm vụ chế áp điện tử

Hiện chưa có thông tin về việc đặt hàng Su-34, nhưng Việt Nam có mong muốn thay thế các phi đội Su-22 lão hóa bằng một loại máy bay tiên tiến như vậy, sẽ tốt hơn khi có một biến thể máy bay tấn công hải quân Su-34 được dành cho xuất khẩu.

MiG-21 là loại máy bay chiến đấu đông nhất, sẽ tiếp tục hoạt động trong Không quân Việt Nam, trong một khoảng thời gian 5-10 năm nữa, sau đó nó sẽ được thay thế với một loại máy bay chiến đấu hạng nhẹ, có thể là JAS Gripen 39 của Thụy Điển, loại đang phục vụ trong Lực lượng Không quân Thái Lan.


Biên đội Gripen JAS-39 C/D của Hungary

Ban đầu Việt Nam có kế hoạch thay thế loại máy bay huấn luyện/chiến đấu hạng nhẹ L-39 bằng loại máy bay mới, đó sẽ là loại Yak-130 của người Nga, và lên kế hoạch mua 12 chiếc Yak-130 trong khoảng thời gian năm 2015 - 2025. Tuy nhiên, các nhân viên đào tạo và huấn luyện bay của Việt Nam đã không hài lòng Yak-130 sau khi thử nghiệm loại này ở Nga trong năm 2011. Do đó, Nga sẽ không có cơ hội cạnh tranh để thực hiện được kế hoạch cung cấp máy bay huấn luyện Yak-130 cho Việt Nam. Trong lĩnh vực này, biến thể nâng cấp của máy bay huấn luyện L-39 là L-159 ALCA có vẻ thích hợp hơn và có khả năng chiến thắng cao hơn.

Cũng theo nguồn tin, Việt Nam đang xem xét mua ít nhất 2 máy bay cảnh báo sớm trên không AWACS. Trong đó, theo các chuyên gia, CASA EC-295 là lựa chọn hợp lý nhất.

Theo Báo Đất Việt

Việt – Nga: đối tác tin cậy, chất lượng hiện đại

29/10/2012- Ngày 26.10, theo người phát ngôn bộ Ngoại giao nước ta, thủ tướng Liên bang Nga Dmitry Mevedev sẽ thăm Việt Nam trong hai ngày 6 và 7.11 tới. Người phát ngôn bộ Ngoại giao nhấn mạnh: “Đây là chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng, diễn ra trong bối cảnh hai nước Việt Nam và LB Nga vừa nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện. Hai bên dự kiến sẽ thảo luận các biện pháp nhắm tăng cường hơn nữa trong các lĩnh vực, trao đổi những vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm”.


Theo truyền thông Nga, Việt Nam cần hiện đại hóa hệ thống phòng không, đồng thời muốn Nga giúp huấn luyện quân nhân, đặc biệt là đội ngũ vận hành 6 tàu ngầm “Kilo” mà Việt Nam đã đặt mua trước đây.

Theo TTXVN, trong một cuộc họp cách đây hơn một tuần của Ủy ban hợp tác quân sự-kỹ thuật của Liên bang Nga với nước ngoài, tổng thống Vladimir Putin đã yêu cầu các giới chức hữu trách nâng cấp quan hệ hợp tác quân sự-kỹ thuật với bốn đối tác của Moskow trong khối BRICS (Brasil, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), cũng như với Việt Nam. Tại sao Việt Nam được nâng cấp quan hệ lên hàng “top five” như thế?

Theo tổng thống Putin, Trung Quốc và Ấn Độ là hai đối tác truyền thống quan trọng, Brasil và Nam Phi là hai đối tác mới có tiềm năng, còn Việt Nam “đã chứng tỏ là một đối tác tin cậy của Nga trong vùng, đang dần dần đẩy mạnh hợp tác quân sự-kỹ thuật với Nga sau một thời gian gián đoạn”.

Trong phát biểu đọc tại cuộc họp ở dinh Novo Ogarevo vào ngày 17.10, ông Putin đã xác định các nội dung cụ thể của khái niệm “nâng cấp quan hệ”. Theo ông, đây không chỉ là quan hệ buôn bán đơn thuần, mà còn là hợp tác trong các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D), sản xuất và chế tạo, thành lập các trung tâm dịch vụ và bảo hành các loại vũ khí, thiết bị quân sự, hợp tác với nhau trong việc xuất khẩu các thiết bị này sang các nước thứ ba.

Theo tin từ bộ Quốc phòng Nga, ngày 20.10 vừa qua, một đoàn tướng lĩnh và quan chức của quân đội Việt Nam do thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, tổng tham mưu trưởng QĐNDVN dẫn đầu đã sang Nga tham dự buổi lễ khởi công đóng tàu ngầm cho Việt Nam tại nhà máy Admiralteisky.

Đoàn của thượng tướng Đỗ Bá Tỵ đã có các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo bộ Quốc phòng Nga tại Moscow để bàn về các vấn đề hợp tác quân sự và bảo đảm an ninh cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Theo truyền thông Nga, Việt Nam cần hiện đại hóa hệ thống phòng không, đồng thời muốn Nga giúp huấn luyện quân nhân, đặc biệt là đội ngũ vận hành 6 tàu ngầm “Kilo” mà Việt Nam đã đặt mua trước đây.

Theo Trung tâm phân tích thương mại về vũ khí của thế giới (TsAMTO), trong giai đoạn 2012-2015, cơ cấu xuất khẩu vũ khí của Nga sẽ có thay đổi. Việt Nam chiếm vị trí thứ ba sau Ấn Độ và Venesuela. Nhờ có vũ khí của Nga, Việt Nam đã cũng cố lực lượng hải quân của mình. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với đất nước trong bối cảnh căng thẳng leo thang trên Biển Đông.

Giám đốc trung tâm TsAMTO Igor Korotchenko nhận định: “Việt Nam đã mua 12 tàu tên lửa “Molnia” có sức chiến đấu và tấn công mạnh. Trong số này, hai tàu được cung cấp từ Nga, còn mười chiếc khác được cấp phép đóng tại Việt Nam. Hợp đồng cung cấp sáu tàu ngầm “Kilo 636” sẽ đưa Việt Nam lên vị trí một trong những ‘thủ lĩnh khu vực” sở hữu một lực lượng tàu ngầm mạnh. Một chỉ dấu đầy ý nghĩa khác là thỏa thuận về việc thành lập xí nghiệp liên doanh sản xuất tên lửa chống hạm loại “Uran”.

Phương hướng quan trọng trong hợp tác kỹ thuât-quân sự giữa hai nước là hiện đại hóa tất cả các vũ khí Xô-viết hiện có trong bộ trang bị của quân đội Việt Nam. Nhờ biện pháp cung cấp kịp thời và đúng lúc, thời hạn sử dụng của các trang thiết bị này có thể kéo dài thêm từ 10 đến 15 năm. Ông Korotchenko dự đoán: “Tất cả những công đoạn này khiến Việt Nam trở thành đối tác ổn định và tiên liệu được của nước Nga”.

Theo SGTT

Úc nói kiềm chế TQ là 'không thể'

29/10/2012- Thủ tướng Australia Julia Gillard phác thảo chính sách ngoại giao lớn nhằm cải thiện quan hệ với các nước Châu Á và cũng nói không thể kiềm chế nổi quân đội Trung Quốc.


Thủ tướng Gillard nói thế kỷ 21 sẽ chứng kiến sự trở lại vai trò lãnh đạo toàn cầu của Châu Á

Sách trắng của chính phủ đề ra 25 mục tiêu quốc gia cần đạt cho tới năm 2025 với các mục tiêu từ cải thiện liên hệ thương mại tới giảng dạy tiếng Hoa rộng rãi hơn.
Bà Gillard nói bà muốn tái tập trung Australia vào các nước láng giềng gần gũi nhất là Trung Quốc và Ấn Độ thay vì vào các nước "già nua" ở Châu Âu.
Kế hoạch này nằm trong sách trắng 312 trang mang tên "Australia trong Thế kỷ Á Châu".
Khi công bố tài liệu tại Viện Lowy ở Sydney, bà Gillard nói đây là cơ hội lịch sử cần nắm bắt khi Châu Á đang chuẩn bị thành nơi có tầng lớp trung lưu lớn nhất thế giới trong vòng 20 năm tới.

"Quy mô và tốc độ phát triển của Châu Á thật chóng mặt và đi kèm đó là các cơ hội và thách thức cho mọi người Australia," bà nói.

"Chỉ dựa vào may mắn không thôi là không đù - tương lai của chúng ta tùy thuộc vào các chọn lựa của chúng ta và cách chúng ta tiếp cận khu vực mà chúng ta đang sống."

Không kiềm chế TQ

Cho dù bà Gillard nhấn mạnh mối quan hệ chiến lược tiếp tục của Australia với Hoa Kỳ, diễn văn của bà cũng chính thức hóa xu hướng của ba thập niên qua trong đó Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản, Hoa Kỳ và Nam Hàn để trở thành bạn hàng hàng đầu của Australia, theo phóng viên BBC ở Sydney, Duncan Kennedy.

Các thủ tướng trước đây của Austraalia như Bob Hawke và Paul Keating đã thiết lập những mối quan hệ đầu tiên với Châu Á nhưng chính sách mới sẽ có chiều sâu và có tổ chức hơn, phóng viên BBC nói thêm.

Một số mục tiêu mang tính cụ thể trong khi một số khác có tính hoài bão. Trong số các mục tiêu có:

- Tăng thu nhập bình quân đầu người ở Australia từ 62.000 đô la Mỹ/năm lên 73.000 đô la Mỹ vào năm 2025

- Cải thiện hệ thống giáo dục để lọt vào nhóm năm nước dẫn đầu và 10 trường có tên trong danh sách 100 trường đầu bảng của thế giới

- Đưa việc học về Châu Á thành phần căn bản của chương trình đào tạo phổ thông
Tạo cơ hội để các học sinh có thể học một trong số các ngôn ngữ Châu Á ưu tiên - Tiếng Trung, Tiếng Hindi, Indonesia hay Nhật Bản

- Đảm bảo các doanh gia hiểu về Châu Á.

- Australia là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (Apec) và là một trong 11 nước tham gia đàm phán hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Cả Apec và TPP đều có mục tiêu tự do hóa thương mại ở khu vực.

Về vấn đề an ninh, sách trắng 'Australia trong Thế kỷ Châu Á' nói bất kỳ chính sách nào nhằm kiềm chế sự phát triển quân sự của Trung Quốc sẽ vô tác dụng.

Thay vào đó Australia nói rằng họ có thể cân bằng mối quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ trong khi vẫn ủng hộ sự phát triển quân sự của Trung Quốc.

Theo BBC

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

"Học giả" Đài Loan và Trung Quốc kêu gọi hai bên hợp lực khai thác dầu khí ở Biển Đông

28/10/2012- Theo nhật báo Đài Loan Taipei Times, vào hôm nay, 28/10/2012, một nhóm học giả Đài Loan và Trung Quốc lại vừa khuyến cáo chính phủ của họ tăng cường hợp tác để quản lý tốt vấn đề Biển Đông, mà cả hai bên đều tranh giành chủ quyền cùng với 4 láng giềng Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei.


Đảo Ba Bình / Trường Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam bị Đài Loan chiếm giữ (nguồn: unc.edu)

Một trong những đề nghị là Bắc Kinh và Đài Bắc bắt tay chặt chẽ với nhau để khai thác dầu khí tại các vùng có tranh chấp.

Nhóm học giả gồm 16 người thuộc các cơ quan nghiên cứu khác nhau tại Đài Loan và Trung Quốc, với hai người đầu đàn là Lưu Phục Quốc (Liu Fu-kuo), chuyên gia nghiên cứu tại Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học Quốc lập Chính trị Đài Loan, và Ngô Sĩ Tôn (Wu Shicun), Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc. Họ đã kêu gọi hai bên eo biển hợp tác với nhau vì lợi ích của cả hai phía.

Đối với các học giả này, chính quyền hai phía nên phối hợp với nhau để hình thành ra một cơ chế đồng khai thác dầu khí trong vùng Biển Đông, có thể mở ra cho các quốc gia tranh chấp chấp. Theo họ, cho dù nguyên tắc "tạm gác tranh chấp để cùng nhau phát triển" đều được tất cả các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông chấp nhận, nhưng trong thực tế hầu như không có tiến bộ nào trong lãnh vực này.

Ngược lại, theo các học giả Đài Loan và Trung Quốc, các nước tranh chấp Đông Nam Á đã không ngừng có những nỗ lực đơn phương để thu hút đầu tư quốc tế vào khai thác dầu khi trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam và Philippines. Trường hợp Việt Nam được nêu bật vì cũng đòi hỏi chủ quyền trên 53 hòn đảo trong vùng, giống như Đài Loan và Trung Quốc.

Trong bối cảnh đó, theo báo Taipei Times, các học giả đã có một đề nghị : Tập đoàn Lọc dầu Nhà nước CPC Corp của Đài Loan cùng với Đại tập đoàn dầu khí hải dương Trung Quốc CNOOC, nên mở rộng hợp tác hiện thời - vốn giới hạn ở vùng eo biển Đài Loan - qua việc khai thác nguồn tài nguyên từ vùng biển phía bắc của quần đảo Pratas (Đông Sa), cũng như qua các vùng biển ngoài khơi bờ biển phía đông và vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa.

Theo báo Taipei Times, một bài viết do ông Ngô Sĩ Tồn và đồng nghiệp của ông là Lưu Phong (Liu Feng) cho rằng cần phải đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán Trung Quốc – Đài Loan những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của dân Trung Hoa tại Biển Đông, và duy trì sự toàn vẹn lãnh lãnh thổ của Trung Quốc.

Về các vấn đề liên quan đến Biển Đông, ông Lâm Đình Huy (Lin Ting-hui), tiến sĩ nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương thuộc Viện Nghiên cứu Trung Ương Đài Loan Academia Sinica, cho rằng việc Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu bật đèn xanh cho công cuộc hợp tác kể trên tùy thuộc vào diễn biến của tình hình quốc tế.

Chuyên gia này giải thích thêm : Mỹ đã rất lo ngại về các kế hoạch của chính quyền Đài Bắc nhằm tăng cường lực lượng trên đảo Itu Aba tại Trường Sa (tên tiếng Hoa là Thái Bình, Việt Nam gọi là Ba Bình), hiện do Đài Loan trấn giữ. Washington sợ rằng Trung Quốc có thể viện cớ đó để sử dụng hành động quân sự chống lại Việt Nam và Philippines nếu hai nước này có hành động « khiêu khích ».

Xin nhắc lại là các khuyến nghị kể trên của các học giả Đài Loan và Trung Quốc đi kèm theo lời kêu gọi hai bên hợp sức để biện minh trước quốc tế về tính đúng đắn của tấm bản đồ « chín đường gián đoạn » đã được cả Trung Quốc lẫn Đài Loan dùng làm cơ sở xác định chủ quyền của họ tại Biển Đông. Từ ngày được Bắc Kinh chính thức công bố, tấm bản đồ này đã bị hầu hết giới khoa học quốc tế phê phán là không có cơ sở pháp lý.

Theo RFI


Tên lửa phòng không Việt Nam

28/10/2012- Điểm danh các loại tên lửa phòng không đang biên chế trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Igla (Việt Nam gọi là tên lửa A87) là một loại tên lửa phòng không vác vai do Nga/Liên Xô cung cấp dùng chống máy bay bay thấp. Trong ảnh: Bắn thử tên lửa vác vai A87 (nguồn QĐND)


9K35 Strela 10 (Việt Nam gọi là A89) là hệ thống tên lửa phòng không tầm thấp trang bị trên xe bánh xíc, điều khiển bằng hồng ngoại/quang học, có độ cơ động cao, tầm hoạt động của đạn tên lửa 5 km. Ảnh tên lửa A89 rời kíp bắn tiêu diệt mục tiêu (nguồn QĐND).


Tên lửa Strela 10 "phun lửa" trong đêm (nguồn VOV)


Hai tổ hợp tên lửa Strela 10 cải tiến của Việt Nam tham gia tập trận hồi cuối năm 2011 (nguồnVOV)


Đạn tên lửa Strela


S-75 Dvina (NATO gọi là SA-2 Guideline) là một tổ hợp tên lửa đất đối không (SAM) tầm cao do Liên Xô chế tạo. Tại Việt Nam, tổ hợp tên lửa phòng không này thường được gọi là SAM-2. Ảnh bảo dưỡng đài tên lửa S-75 (nguồn QĐND)


Đạn tên lửa tổ hợp phòng không tầm cao S-75M Volga truy tìm mục tiêu trong đêm (nguồn QĐND)


Tên lửa S-75 khai hỏa trong cuộc tập trận ở trường bắn TB1 hồi cuối năm 2011 (nguồn QĐND)


Bệ phóng tên lửa đối không tầm cao S-75M, sẵn sàng bắn hạ mục tiêu (nguồn VOV)


Hệ thống tên lửa phòng không tầm cao S-125 Neva/Pechora (hay còn gọi là SAM-3) do Nga/Liên Xô chế tạo. S-125 được viện thiết kế để bổ sung cho tên lửa S-75, tên lửa có tầm hoạt động xa 35 km, độ cao bay 18 km. Ảnh tên lửa S-125 khai hỏa (nguồn VOV)


Đạn tên lửa S-125-2TM khai hỏa...(Nguồn VOV)


Bảo dưỡng đạn tên lửa S-125 Pechora-2M


Mỗi bệ phóng lắp được 4 đạn tên lửa (nguồn QĐND)


Bệ phóng tên lửa đối không S-125-2TM, hệ thống S-125 được các chuyên gia nước ngoài cải tiến đạt tầm bắn xa hơn, chính xác hơn, ổn định hơn.


Sẵn sàng chiến đấu (nguồn QĐND)


Kíp chiến đấu hiệp đồng tác chiến.


Đạn tên lửa S-125-2TM chuẩn bị bắn đạn thật (nguồn VOV)


Rời bệ phóng truy tìm mục tiêu (nguồn VOV)


S-300PMU1 là hệ thống tên lửa phòng không tầm xa hiện đại nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay (nguồn QĐND)


Hiện nay, Việt Nam đang sở hữu 2 tiểu đoàn tên lửa S-300MPU1


Hệ thống có tầm xa tác chiến từ 40-150km, độ cao 0,1-30 km. (nguồn QĐND)


Tổ hợp tên lửa S-300 diễn tập (nguồn VOV)


Xe mang ống phóng tên lửa hệ thống S-300 hiện đại tham gia diễn tập

Tin tổng hợp